Vua Việt xưa nghiêm trị tội vi phạm giao thông như thế nào?

Ít ai biết rằng, vào thời kỳ mà đất còn rộng, dân còn thưa, hệ thống đường giao thông còn lạc hậu, đơn giản nhưng pháp luật phong kiến Việt Nam đã có những quy định điều chỉnh về hoạt động giao thông và những vấn đề có liên quan khác.

Vua Việt xưa nghiêm trị tội vi phạm giao thông thế nào?

Các điều luật trong pháp luật phong kiến đều có sự phân định các hành vi khác nhau có nguy cơ gây nguy hại đến cộng đồng khi tham gia giao thông và kèm theo chế tài xử phạt tùy từng mức độ vi phạm.

Trong Quốc triều hình luật (thường được gọi là bộ luật Hồng Đức), tại điều 553 có quy định như sau: “Người vô cớ mà phóng ngựa chạy trong phố phường, đường ngõ trong kinh thành hay là trong đám đông người thì bị xử phạt 60 trượng. Nếu vì thế mà làm bị thương hay chết người thì bị xử tội nhẹ hơn tội đánh bị thương hay chết người một bậc; làm bị thương hay chết các súc vật thì phải đền số tiền theo sự mất giá (ví như con vật đáng 10 phần, nay làm chết giá chỉ còn 2 phần thì phải đền giá 8 phần; làm bị thương mất 1 phần thì phải đền giá 1 phần). Nếu vì việc công hay tư cần phải đi gấp mà phóng ngựa chạy thì không phải tội; vì thế mà làm bị thương hay chết người thì xử theo tội vì lầm lỡ để xảy ra. Nếu vì ngựa sợ hãi lồng lên, không thể ghìm được, để xảy ra việc làm bị thương, chết người thì được xử giảm nhẹ hơn một lầm lỡ hai bậc”.

Kế thừa một số quy định trong hệ thống pháp luật triều Hậu Lê, bộ luật đầu tiên và quan trọng nhất của triều Nguyễn là bộ Hoàng Việt luật lệ (thường được gọi là bộ luật Gia Long) cũng có điều khoản về hành vi “vi phạm trật tự giao thông”. Trong phần Hình luật ở mục Nhân mạng có điều luật quy định về việc “Phóng xe và ngựa sát thương người” như sau:

“Phàm kẻ nào vô cớ phóng xe, ngựa ở nơi phố phường, thị trấn, nhân đó làm người khác bị thương thì giảm 1 bậc so với tội đánh nhau gây thương tích thông thường. Làm chết người thì phạt đánh 100 trượng, lưu đày 3.000 dặm. Nếu kẻ nào vô cớ phóng xe, ngựa ở nơi thôn quê, ngoài cánh đồng vắng vẻ nhân đó làm người khác bị thương (không làm chết người thì không bị xử tội); làm chết người thì bị phạt đánh 100 trượng. Các tội đã phạm kể trên đều bị truy thu 10 lạng bạc mai táng phí. Nếu kẻ nào vì công vụ cấp tốc mà phóng nhanh gây sát thương người khác thì xử theo luật “lỡ tay” (theo luật thu tiền chuộc tội cấp cho gia đình người đó)”.

Quy định này còn được giải thích cụ thể, theo đó: “Phố phường là nơi dân cư đông đúc không thể so với nơi hương thôn ngoài cánh đồng, không được vô cớ phóng nhanh xe, ngựa. Kẻ nào nhân phóng nhanh mà làm người khác bị thương thì xử giảm 1 bậc so với tội đánh nhau làm người khác bị thương thông thường, làm chết người thì phạt đánh 100 trượng, lưu đày 3.000 dặm.

Nếu ở nơi hương thôn hoặc ngoài cánh đồng thì người thưa vắng, không thể so với nơi phố phường chợ búa nguyên không cấm người ta phóng nhanh, cho nên kẻ nào làm người khác bị thương thì không bị xử tội, kẻ nào làm chết người thì bị phạt đánh 100 trượng. Ngoài việc xử tội như trường hợp phóng nhanh nơi phố phường làm chết người ra còn phải truy thu 10 lạng bạc mai táng phí.

Nếu kẻ nào vì công vụ sai phái cấp tốc không thể không phóng xe, ngựa thật nhanh hoặc nơi phố phường chợ búa hoặc ở nơi hương thôn, ngoài cánh đồng nhân phóng nhanh mà sát thương người khác thì đều xử vào tội lỡ tay sát thương người khác, chiểu theo luật “đánh nhau gây sát thương”, theo luật thu tiền chuộc tội cấp cho gia đình người bị hại…”.

Ngoài quy định nói trên còn có kèm theo điều lệ như sau: “Phàm kẻ nào cưỡi ngựa xô vào người khác làm bị thương thì ngoài việc xét xử theo luật ra còn phải đem con ngựa đã cưỡi đó cấp cho người bị thương. Nếu người bị ngựa xô phải mà chết thì con ngựa đó xem sung công”.

Trong sách sử triều Nguyễn, cụ thể là trong sách Đại Nam thực lục có chép một chuyện về hành vi “vi phạm trật tự giao thông” dẫn đến chết người đã bị xử lý nghiêm khắc. Theo đó thì một hoàng tử tên là Miên Phú, tính tình ngang bướng, hay chơi bời; một đêm tháng 11 năm Ất Mùi (1835) Miên Phú cùng một số thuộc hạ đua ngựa ở ngoài hoàng thành, được một lúc thì vị hoàng tử này về trước, nhưng đám thuộc hạ thì vẫn tiếp tục cho ngựa chạy thi.

Một bà lão đi đường tránh không kịp bị ngựa của Hoàng Văn Vân xéo chết. Được tin báo, vua Minh Mạng lập tức sai triều thần điều tra. Mặc dù không trực tiếp gây ra cái chết của bà lão nhưng hoang tử Miên Phú bị vua trách mắng nặng nề: “Nhiều lần trẫm đã nghiêm khắc dạy dỗ nhưng không biết chừa và sửa đổi chút nào. Nay lại gần gũi với lũ tiểu nhân, phi ngựa ở đường lớn trong kinh thành, là nơi quan quân đi lại đông đúc để đến nỗi xéo chết mạng người. Sao còn xứng đáng là hoàng tử nữa, lại không vâng lời cha dạy bảo, thực là đứa con xấu xa, tội nào còn lớn hơn nữa. Nay để giữ công bằng, quyết không cho nghị thân (thân thích vua được giảm tội, hoặc dùng tiền chuộc tội), nghị quý (người có công được giảm tội, hoặc dùng tiền chuộc tội). Phàm các em và con cháu chớ nên coi khinh, lấy thân để thử pháp luật, gương sáng chẳng xa, ai nấy phải kính nể”.

Sau đó Minh Mạng sai tước hết áo mũ của Miên Phú, cắt hết lương bổng hàng năm, bắt đóng cửa ở trong nhà để tự sửa lỗi, không cho dự vào hàng các hoàng tử, lại còn phải bồi thường 200 lạng bạc cho gia đình người bị chết. Riêng Hoàng Văn Vân bị xử chém sau khi hết hạn tạm giam, những thuộc hạ khác của Miên Phú có tham gia vào cuộc đua ngựa đều bị đi đày nơi xa, khi đến nơi lưu đày còn bị đánh 100 gậy.

Bên cạnh quy định xử lý “vi phạm trật tự giao thông”, pháp luật đương thời còn có các điều luật đề cập đến trách nhiệm của các cá nhân có thẩm quyền trong việc đảm bảo an toàn cho đường xá, cầu cống, tránh để xảy ra các sự việc đáng tiếc cho mọi người khi tham gia giao thông.

– Xử tội khi để cầu cống, đường xá đổ nát, hư hỏng: Điều 85 bộ Quốc triều hình luật có nội dung như sau: “Các chủ ty thấy cung điện, cửa thành hư hỏng hay là đường xe vua đi, cầu cống đổ nát mà không tâu trình, khi có chiếu chỉ vua sai sửa chữa mà lại không sửa cho bền chắc thì đều phải biếm một tư và bãi chức; để tổn hại đến xa giá thì xử nặng thêm hai bậc”.

Cũng trong bộ luật này, tại điều 633 quy định: “Ở các phủ, huyện và trấn, những đường sá, cầu cống mà là nơi qua lại xung yếu thì các quan lộ, huyện, trấn phải bắt dân sở tại sửa sang luôn, nếu để hủy hoại làm ngăn trở việc đi lại của quân dân thì bị xử tội biếm hay tội phạt”.

Trong sách Sĩ hoạn châm quy đề cập đến trách nhiệm của người làm quan, trong đó có việc tu sửa cầu đường: “Phàm các đoạn cầu, đường nhất thiết phải gia cố, xem xét. Những cầu, cống bị hỏng, gãy, đường sá bị sạt lở đi lại khó khăn thì phải sửa chữa cốt sao cho được chắc chắn, bằng phẳng, thuận tiện việc đi lại, tránh được cái họa bị nước ứ đọng phải leo cầu treo, cho nên khi Từ Sản làm quan ở nước Trịnh đã dùng xe giúp dân vượt qua sông Trăn, sông Hữu; nếu như tu sửa cầu giúp dân qua sông thì không có điều lo lắng việc qua sông nữa. Nói đó là ơn nhỏ, nhưng đó là điều nhân giúp người”.

Theo sách Quốc triều chiếu lệnh thiện chính, vào tháng 2 năm Giáp Dần niên hiệu Dương Đức thứ 3 (1674) đời vua Lê Gia Tông có ban lệnh răn bảo các quan, trong đó có nội dung: “Nắm chức Đề lĩnh thì phải chỉnh trang, tu sửa đường xá, cầu cống trong kinh, mở đập tháo nước sông, cứu hỏa, phòng gian… Kẻ nào tuân lệnh đúng phép thì khen thưởng. Làm trái, cho Gián quan đài thần vạch tội, tùy nặng nhẹ luận tội”.

– Xử tội khi để đường xá bị xâm phạm trái phép: Điều 573 bộ Quốc triều hình luật quy định: “Những người làm nhà, mở vườn mà xâm lấn vào đường quan lộ thì bị xử biếm một tư; khai khẩn trồng trọt [lấn chiếm] bị xử phạt 80 trượng và bắt sửa lại đường quan lộ như cũ; nếu làm bẩn thỉu đường quan lộ thì phải phạt 50 roi. Quan chủ ty không ngăn cấm thì bị phạt tiền 10 quan; người phường chính phố trưởng cũng phải phạt đánh roi như thế. Nếu đào hỏng đường sá, trồng lấn cây tre hay cây, cùng là đắp bờ đặt đó, làm lấp cả khe hay cống, hay ngăn trở việc đi lại thì bị xử phạt 80 trượng; tội nặng thì bị xử biếm; cành tre, cành cây vươn ra đường thì cho chặt lấy”.

Ở mục 22 của Quốc triều chiếu lệnh thiện chính có viết: “Đường đi, lối lại trong làng đã có giới hạn, nếu kẻ nào xâm chiếm làm của riêng khiến lối đi trở lên nhỏ hẹp thì cho xã thôn trưởng khám đo, bắt làm lại như cũ để đi lại. Nếu cưỡng lại, dẫn trình lên nha môn trị tội”.

Trong sách này còn cho biết, vào tháng 10 năm Canh Tý niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 (1660) đời Lê Thần Tông ban lệnh đắp đường thiên lý: “Các huyện, xã, thôn, trang, sách, động ở bản xứ, đường thiên lý thuộc địa phận xứ nào bị vỡ hỏng, sụt thấp khiến cho qua lại bất tiện thì vào tháng 11 hàng năm, Thừa ty phải chuyển công văn cho quan huyện nội thuộc tra kỹ các xã, thôn, trang, sách, động thuộc bản huyện gần sát ven đường, chiếu theo địa phận đốc thúc nhân dân bồi đắp thêm sao cho được bằng phẳng, kiên cố để tiện qua lại, quy định này mãi mãi lấy làm điển chế. Nếu phế bỏ không tuân theo hoặc yêu sách xã dân cung đốn tiền, gạo, ăn uống, cho kêu cáo lên, tra đúng sự thật, nếu là quan thì xử biếm bãi, nếu là lại thì xử sung quân”.

Bộ Hoàng Việt luật lệ cũng có điều lệ về việc xử lý hành vi xâm chiếm đường sá và trị tội quan chức khi không làm tròn trách nhiệm trong tu sửa cầu cống, đường sá.

Có thể thấy rằng, mặc dù ở thời kỳ mà các quan hệ xã hội còn chưa đa dạng, phức tạp như hiện nay, nhưng ở mức độ nhất định, các quan hệ xã hội chủ yếu đều có quy phạm pháp luật điều chỉnh, trong đó có lĩnh vực “trật tự giao thông” và “hạ tầng giao thông”. Điều này chứng tỏ từ hàng trăm năm trước, cha ông ta đã có tầm nhìn và quan điểm rõ ràng về mặt luật pháp đối với một trong những lĩnh vực thiết yếu của đời sống xã hội.

Theo LÊ THÁI DŨNG / KIẾN THỨC

Tags: , ,