Vó ngựa quân Mông Cổ đã giày xéo Trung Hoa như thế nào?

Để thực hiện ước vọng xây dựng đế chế hùng mạnh nhất lục địa Á-Âu, Thành Cát Tư Hãn khởi xướng việc xâm lược Trung Quốc, sau đó đạo quân của ông mất tới 60 năm ròng để hoàn thành.

Vó ngựa quân Mông Cổ đã giày xéo Trung Hoa như thế nào?

Quân Mông Cổ xâm lược Trung Quốc là một quá trình trường kỳ, kéo dài 60 năm với những trận chiến khốc liệt. Những vương triều tàn lụi dưới vó ngựa Mông Cổ có nhà Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Nam Tống.

Thành Cát Tư Hãn là người mở đầu chiến dịch bằng các đợt du kịch vào nhà Tây Hạ và tới năm 1276, Hốt Tất Liệt, cháu của Thành Cát Tư Hãn kết thúc 6 thập kỷ giao tranh, lập nên nhà Nguyên. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc bị một thế lực ngoại bang xâm lược, bình định và làm chủ.

Chinh phục Tây Hạ

Cuối năm 1190, đầu năm 1200, Thiết Mộc Chân, sau được tôn xưng là Thành Cát Tư Hãn (bá chủ vũ trụ) nhanh chóng củng cố quyền lực của mình ở đế chế Mông Cổ. Năm 1205, Thành Cát Tư Hãn tấn công vào khu vực Edsin và một tộc người Tây Hạ ở biên giới chấp thuận thần phục quân Mông Cổ. Sau đó hai năm, Thành Cát Tư Hãn dẫn một cách quân khác thọc sâu vào lãnh thổ Tây Hạ, xâm lược khu vực Ordo, Ô Lai Hải dọc sông Dương Tử trước khi rút binh vào năm 1208.

Một năm sau đó, Thành Cát Tư Hãn lại kéo quân tiến vào Tây Hạ nhằm khuất phục hoàn toàn quốc gia này. Sau khi đánh bại một lực lượng do tướng Kao Liang-Hui chỉ huy ngoài Ô Lai Hải, Thành Cát Tư Hãn chiếm được thành phố này và dồn quân dọc sông Dương Tử, đồng thời bao vây thành phố Ngân Xuyên (khu tự trị Ninh Hạ ngày nay) bằng 15 vạn quân.

Thời điểm năm 1209, quân Mông Cổ vẫn chưa rành rẽ chiến thuật bao vây. Khi Thành Cát Tư Hãn ra lệnh lấp dòng Dương Tử để chặn nguồn nước của dân bản địa, tường bao bị vỡ và nhấn chìm khu lều trại của lính Mông Cổ. Dù vậy, hoàng đế Lý An Toàn vẫn sợ hãi trước thế quân Mông Cổ và xin hàng. Ông thể hiện sự thần phục của mình bằng cách gả con gái Chaka cho Thành Cát Tư Hãn và cống nạp lạc đà, chim ưng và vải quý.

Nhà Tây Hạ sau đó trở thành chư hầu đắc lực của Thành Cát Tư Hãn trong gần 10 năm, hỗ trợ quân Mông Cổ tấn công xâm lược nhà Kim. Năm 1219, Thành Cát Tư Hãn chỉ huy chiến dịch đánh chiếm đế quốc Khwarazm ở Iran ngày nay và nhận được sự trợ giúp về mặt hậu cần của nhà Tây Hạ.

Dù vậy, hoàng đế nhà Tây Hạ là Asha không đồng ý tham chiến và nói rằng Thành Cát Tư Hãn có quá ít quân để tiêu diệt đế chế Khwarazm hùng mạnh. Thành Cát Tư Hãn nổi xung và tự đưa quân đánh chiếm đế quốc ở vùng Trung Á. Nhà Tây Hạ lúc này định liên thủ cùng nhà Kim, Tống để đánh lại Thành Cát Tư Hãn.

Quân số Khwarazm đông đảo hơn nhưng không chống đỡ nổi những đợt tấn công như vũ bão của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1221, đế chế này bị tiêu diệt hoàn toàn và chủ soái của Khwarazm còn bị đổ bạc nóng chảy vào tai và mắt. Cùng thời điểm, Thành Cát Tư Hãn lên kế hoạch trả thù nhà Tây Hạ vì mưu phản bằng việc tập hợp số quân lên tới 18 vạn người.

Sau khi chiếm được Khara-Khoto (Nội Mông ngày nay), quân Mông Cổ tràn xuống phía nam. Hoàng đế Asha lúc này đang ở Ngân Xuyên, cách phía nam 500 km và còn một sa mạc nóng bỏng phải vượt qua nên không về kịp. Thành Cát Tư Hãn hạ lệnh cho binh sĩ “giết sạch, đốt sạch” và yêu cầu tướng lĩnh phá hủy toàn bộ hệ thống phòng ngự của Tây Hạ. Thành Cát Tư Hãn chia quân làm hai cánh, trong đó tướng Tốc Bất Đài tiêu diệt các thành phố phía cực tây và lực lượng chính do Thành Cát Tư Hãn dẫn đầu tiêu diệt vùng phía đông. Thành Cát Tư Hãn chiếm được Cám Châu (tỉnh Giang Tây ngày nay) nhưng thị trấn này được “tha” không bị phá hủy do tướng Chagaan của Thành Cát Tư Hãn sinh ra ở đây.

Tháng 8/1226, Thành Cát Tư Hãn tấn công thành phố lớn thứ hai của Tây Hạ là Võ Vệ và nơi này xin hàng luôn để tránh bị đốt thành than. Tới mùa thu, Thành Cát Tư Hãn vượt qua sa mạc Helan Shan, bao vây Lingwu rồi có một trận huyết chiến sông Dương Tử diệt toàn bộ 30 vạn quân Tây Hạ.

Mùa xuân năm sau, Thành Cát Tư Hãn tới thành phố Ngân Xuyên, tấn công liên tục để ngăn nhà Kim gửi cứu viện sang nhà Tây Hạ. Thành phố Ngân Xuyên bị bao vây trong nửa năm và Thành Cát Tư Hãn quyết định thương thảo hòa bình trong khi bí mật lên kế hoạch giết hoàng đế Tây Hạ. Trong khi điều đình, Thành Cát Tư Hãn vẫn dấn quân đánh vào núi Lưu Bàn (khu tự trị Ninh Hạ ngày nay). Sau đó, chủ soái Mông Cổ từ chối lời cầu hòa từ nhà Kim và đem quân tới biên giới giáp nhà Kim-Tống.

Tuy nhiên, năm 1227 Thành Cát Tư Hãn đột ngột qua đời với lí do vẫn là bí ẩn lớn nhất thời đại. Tháng 9 cùng năm, hoàng đế Tây Hạ là Mạt Chủ xin đầu hàng và bị chém luôn tại trận. Quân Mông Cổ thừa thắng điên cuồng tấn công thành phố Ngân Xuyên, tàn sát toàn bộ dân số, phá hủy các ngôi mộ cổ và tiêu diệt hoàn toàn nhà Tây Hạ.

Tiêu diệt nhà Kim

Một trong những mục tiêu lớn nhất của Thành Cát Tư Hãn là chinh phục nhà Kim để trả thù cho cái chết trước đây của tổ tiên và thu được các nguồn tài nguyên dồi dào ở phía bắc Trung Quốc. Tiếp đó là tạo bàn đạp xây dựng Mông Cổ thành đế chế hùng mạnh nhất khu vực Âu-Á.

Việc tấn công nhà Kim được Thành Cát Tư Hãn thực hiện từ những năm 1211. Thời điểm đó, quân Mông Cổ rất giỏi tấn công trên đồng bằng nhưng vẫn rất lúng túng ở những thành phố lớn. Thành Cát Tư Hãn và tướng tá đã lập kế hoạch và tìm ra cách đánh địa bàn đô thị phù hợp nhất. Với sự giúp đỡ của các kĩ sư Trung Quốc, họ nghĩ ra một số kĩ thuật để công thành hiệu quả. Các kĩ sư Hồi giáo sau này cũng sáng chế ra máy bắn đá giúp việc tấn công nhà Kim dễ dàng hơn. Máy bắn đá của Thành Cát Tư Hãn có tầm xa 300 m so với loại của Trung Quốc chỉ 150 m. Đây được xem là vũ khí tối quan trọng trên chiến trường để áp đảo bộ binh của đối phương.

Nhờ khả năng tác chiến tốt và sự hỗ trợ đắc lực của máy bắn đá, Thành Cát Tư Hãn nhanh chóng chinh phục nhà Kim vào năm 1213. Ông dùng ba cánh quân tấn công vào “trái tim” của nhà Kim nằm giữa Vạn Lý Trường Thành và sông Dương Tử. Với sự giúp đỡ của tướng Chenyu Liu từng phục vụ nhà Kim, Thành Cát Tư Hãn dễ dàng tiêu diệt đối phương và chinh phục thành trì Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay).

Dù vậy, hoàng đế Huyền Tông của nhà Kim không đầu hàng mà rời kinh đô về Khai Phong. Năm 1234, nhà Kim sụp đổ hoàn toàn khi hoàng đế Ai Tông chạy tới Thái Châu.

Chinh phạt Đại Lý

Năm 1253, quốc vương Mông Kha cử Hốt Tất Liệt, cháu ruột của Thành Cát Tư Hãn tới Đại Lý để áp sườn đánh Tống. Nhà họ Cao ở Đại Lý lúc này làm chủ khu vực đã bắt, giết hại sứ giả Mông Cổ. Quân Mông Cổ ngay lập tức triển khai đội hình thành 3 cánh quân.

Một cánh hướng phía đông vào lòng chảo Tứ Xuyên. Cánh thứ hai do tướng Ngột Lương Hợp Thai đi đường núi vào phía tây Tứ Xuyên. Hốt Tất Liệt dẫn cánh quân về phía nam, qua vùng đồng cỏ và hợp quân với cánh đầu tiên.

Trong khi Ngột Lương Hợp Thai vượt qua vùng phía bắc thì Hốt Tất Liệt tấn công thủ phủ Đại Lý, chiếm được thành trì này nhưng tha cho dân địa phương. Vua Đại Lý là Đoạn Hưng Trí tự nộp mình cho quân Mông Cổ và được phong làm Maharajah (vị vua vĩ đại), cai quản một vùng. Sau khi Hốt Tất Liệt rời khỏi, bạo loạn lại nổ ra giữa tộc người thiểu số Black Jang. Năm 1256, Ngột Lương Hợp Thai mới chính thức bình định xong vùng đất đầy sóng gió là tỉnh Vân Nam ngày nay.

Nhọc nhằn diệt Nam Tống

Ban đầu, quân Mông Cổ liên minh với nhà Tống vì cả hai đều có kẻ thù là nhà Kim. Tuy nhiên, liên minh này nhanh chóng đổ vỡ khi nhà Kim của người Nữ Chân bị tiêu diệt hoàn toàn năm 1234. Nhà Tống đã ngay lập tức chiếm vùng Lạc Dương, Trường An, Khai Phong và giết hại sứ giả quân Mông Cổ. Lúc này, chiến tranh hai bên chính thức nổ ra. Với thực lực của mình, quân Mông Cổ đẩy nhà Tống lùi sâu về sông Dương Tử và cuộc chiến kéo dài trong hơn 40 năm cho tới 1276.

Số lượng quân sĩ Mông Cổ tham chiến ở miền Nam Trung Quốc rất lớn so với số quân xâm lược Trung Đông năm 1256. Trước đây, quân Mông Cổ cần rất ít thời gian để chinh phạt Kim và Tây Hạ, những nơi không phải người Hán sinh sống. Khi tấn công nhà Tống, thời gian kéo dài hơn nhiều.

Quân nhà Tống lúc đó được trang bị vũ khí rất hiện đại, gồm cung tên lửa, pháo lửa và máy phun lửa. Sự chống trả quyết liệt của nhà Tống khiến quân Mông Cổ trải qua thời kì đánh trận dai dẳng và khó khăn nhất. Quân Mông Cổ thậm chí còn phải thu phục từng người dân địa phương nhằm tạo lợi thế nhỏ nhoi trước nhà Tống.

Sau vài trận đánh bất phân thắng bại, quân Mông Cổ không thể nào tiêu diệt phòng tuyến của nhà Tống ở Điếu Ngư, thành phố Trùng Khánh ngày nay. Bước ngoặt xảy ra khi tướng bảo vệ ở phòng tuyến này không được nhà Tống khen thưởng mà trái lại còn bị phạt. Người này sau đó bỏ trốn sang phía Mông Cổ. Người này gợi ý cho Hốt Tất Liệt rằng phải chiếm được thành trì Tương Dương (tỉnh Hồ Bắc ngày nay) thì mới giành được thắng lợi.

Quân Mông Cổ ngay lập tức tấn công Tương Dương và bao vây thành trì này trong vài năm với sự giúp đỡ của các kĩ sư Iraq trong việc chế tạo máy bắn đá khổng lồ. Những kĩ sư này là lực lượng chấp nhận thần phục đế chế Mông Cổ và dùng tài năng của mình trong các trận chiến giúp đỡ chủ soái mới. Cuối cùng, Tương Dương phải đầu hàng. Nhà Tống tiếp tục phái quân cứu trợ Tương Dương dưới sự chỉ huy của vị tướng kém cỏi Giả Tự Đạo. Chính ông là người góp phần rất lớn vào sự diệt vong của nhà Tống. Năm 1276, nhà Tống đầu hàng Mông Cổ.

Với ước vọng thống lĩnh toàn cõi Trung Hoa, Hốt Tất Liệt lập ra triều Nguyên và trở thành hoàng đế “nước ngoài” đầu tiên ở Trung Quốc. Dù nhà Tống đã đầu hàng nhưng tàn quân vẫn tấn công không ngơi nghỉ. Vài năm sau lực lượng tàn quân này mới chấm dứt.

Theo DÂN VIỆT

Tags: , ,