Trật tự thế giới và sự va chạm giữa các nền văn minh

Chính trị thế giới đang tiến vào một giai đoạn mới, và giới học giả đã không ngại ngần tiên đoán về sự kết thúc của lịch sử, sự trở lại của các quốc gia thù địch truyền thống, và sự suy tàn của các quốc gia dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa bộ tộc và chủ nghĩa toàn cầu.

Trật tự thế giới và sự va chạm giữa các nền văn minh

Đáp lại các luận điểm trong cuốn The End of History and the Last Man được Francis Fukuyama viết năm 1992, Samuel Huntington đã phát triển tiểu luận “Sự va chạm giữa các nền văn minh” năm 1993 trên tạp chí Foreign Affairs.

Năm 1996, tiểu luận được phát triển thành cuốn sách thu hút hàng tỷ người đọc và tranh luận sôi nổi trong nửa sau thập kỷ 1990. Cho đến ngày nay, cuốn sách vẫn có ảnh hưởng rất lớn trong giới chính trị và nghiên cứu.

Dưới dây là trích dẫn một số luận điểm cơ bản trong tác phẩm:

Chính trị thế giới đang tiến vào một giai đoạn mới, và giới học giả đã không ngại ngần tiên đoán về sự kết thúc của lịch sử, sự trở lại của các quốc gia thù địch truyền thống, và sự suy tàn của các quốc gia dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa bộ tộc và chủ nghĩa toàn cầu. Mỗi góc nhìn này đều phản ánh những khía cạnh khác nhau của thực tế đang diễn ra. Tuy nhiên, một điểm cực kì trọng yếu về vận mệnh chính trị thế giới trong tương lai đã bị bỏ xót.

Tôi cho rằng nguồn gốc của những mâu thuẫn trong thế giới mới (sau Chiến tranh lạnh) sẽ không chủ yếu xoay quanh vấn đề hệ tư tưởng hay kinh tế. Mà sự chia tách lớn của xã hội loài người và nguồn gốc cơ bản của mâu thuẫn sẽ nằm ở yếu tố văn hóa. Các quốc gia sẽ vẫn là những diễn viên chính trong các câu chuyện thế giới, nhưng những mâu thuẫn chính trị cơ bản sẽ xảy ra giữa các quốc gia hoặc các nhóm văn hóa khác nhau. Sự va chạm giữa các nền văn minh sẽ chiếm lĩnh trường chính trị thế giới. Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là ranh giới của các cuộc chiến tranh trong tương lai.

Mâu thuẫn giữa các nền văn minh sẽ là giai đoạn tiến hóa cuối cùng của xã hội hiện đại…

Trong suốt thời kỳ Chiến Tranh lạnh, thế giới được chia thành Thế giới 1, Thế giới 2, và Thế giới 3. Sự phân chia này giờ đây không còn phù hợp. Việc nhóm các quốc gia theo đặc điểm văn hóa và văn minh sẽ phù hợp hơn nhiều so với dựa trên thang đo chính trị hay kinh tế.

Vậy nền văn minh mà chúng ta đề cập là gì? Một nền văn minh chính là sự nhận dạng văn hóa. Làng mạc, vùng địa lý, nhóm dân tộc, quốc tịch, nhóm tín ngưỡng, tất cả đều có những văn hóa đặc trưng ở các mức khác nhau trong sự đa dạng về văn hóa… Một nền văn minh là một nhóm lớn nhất những người tương đồng văn hóa, và ở nghĩa bao hàm nhất, nền văn minh phân biệt loài người với những loài động vật khác.

Một nền văn minh có thể bao gồm một nhóm rất nhiều người hoặc chỉ một nhóm nhỏ… Một nền văn minh cũng có thể bao gồm nhiều quốc gia (như văn minh Phương Tây, Mỹ Latinh, Ả-rập) hoặc chỉ là một quốc gia (như văn minh Nhật Bản). Các nền văn minh có thể trộn lẫn hoặc đan xen với nhau, và có thể bao gồm cả nền văn minh nhánh… Các nền văn minh luôn vận động; phát triển và suy tàn; phân phia và kết hợp. Các nền văn minh có thể biến mất và bị chôn lấp dưới cát bụi thời gian…

Khác biệt văn minh sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong tương lai và thế giới sẽ được sắp xếp thông qua tương tác giữa 8 nền văn minh lớn: Phương Tây, Khổng Tử, Nhật Bản, Hồi Giáo, Hindu, Chính thống, Mỹ Latinh, và có thể cả văn minh Châu Phi. Mâu thuẫn quan trọng nhất trong tương lai sẽ nổ ra ở ranh giới phân chia các nền văn minh vì những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, khác biệt trong các nền văn minh không chỉ tồn tại thực, mà còn rất cơ bản. Những nền văn minh được phân biệt bằng lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống, và quan trọng nhất là tôn giáo. Con người thuộc các nền văn minh có cách nhìn khác nhau về Chúa và con người, cá nhân và nhóm, công dân và nhà nước, cha mẹ và con cái, chồng và vợ, và những nhìn nhận về tầm quan trọng của quyền lợi và trách nhiệm, tự do và luật pháp, bình đẳng và cấp bậc. Những khác biệt này là sản phẩm của nhiều thế kỷ lịch sử và sẽ không sớm biến mất. Những khác biệt này cơ bản hơn nhiều so với những khác biệt về hệ tư tưởng và bộ máy chính trị. Những khác biệt không nhất thiết nghĩa là mâu thuẫn, và mâu thuẫn không nhất thiết mang nghĩa bạo lực. Mặc dù vậy, qua nhiều thế kỷ, những khác biệt văn minh đã tạo ra những mâu thuẫn bạo lực kéo dài chưa từng có.

Thứ hai, thế giới đang trở nên chật chội hơn. Những tương tác giữa con người thuộc những nền văn minh khác nhau ngày càng tăng; những tương tác tăng cường này nhấn mạnh ý thức văn minh và sự khác biệt giữa văn minh và tương đồng bên trong các nền văn minh. Người Bắc Phi di cư đến Pháp tạo ra sự thù địch của người Pháp và cùng lúc tạo ra sự chấp nhận của những người theo đạo Thiên chúa Châu Âu “tốt bụng”. Người Mỹ phản ứng tiêu cực hơn nhiều với đầu tư của Nhật Bản so với đầu tư từ Canada và Châu Âu. Nói theo cách của Donald Horowitz, “Ở Lagos, một người Ibo vẫn là người Ibo. Ở London, anh ta là người Nigeria. Còn ở New York, anh ta là người Châu Phi”…

Thứ ba, các quá trình hiện đại hóa kinh tế và thay đổi xã hội trên thế giới đang tách con người khỏi những đặc điểm địa phương.

đã tồn tại từ lâu đời. Những quá trình này cũng làm suy yếu các quốc gia với vai trò là một nguồn tạo ra khác biệt. Trên thế giới tôn giáo đang dần san lấp khoảng trống này, thường dưới dạng phong trào nền tảng (Fundamentalist). Những phong trào như vậy xảy ra đối với đạo Cơ đốc giáo Phương tây, đạo Do Thái, Đạo Phật, Đạo Hindu, và cả đạo Hồi. Ở hầu hết các quốc gia, và hầu hết các tôn giáo, những người hoạt động mạnh trong các phong trào nền tảng là những người trẻ tuổi, có học, kỹ thuận viên thuộc tầng lớp trung lưu, người có chuyện môn, và doanh nhân… Sự trỗi dậy của của tôn giáo, theo Gilles Kepel, cung cấp nền tảng cho sự nhận diện và cam kết nhằm thay đổi ranh giới giữa các quốc gia và kết hợp các nền văn minh.

Thứ tư, sự tăng cường ý thức văn minh được củng cố bởi vai trò kép của Phương tây. Một mặt, Phương tây đứng trên đỉnh quyền lực. Mặt khác, xu hướng trở về cội nguồn đang xảy ra ở những nền văn minh phi Phương tây. Càng ngày chúng ta càng nghe nhiều những thứ như hướng nội như “Châu Á hóa” ở Nhật Bản, “Hindu hóa” ở Ấn Độ, sự thất bại của tư tưởng Phương tây về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa dân tộc và do đó là sự tái sinh của chủ nghĩa hồi giáo ở Trung Đông, và cuộc tranh cãi giữa Tây hóa hay Nga hóa trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Nga Boris Yeltsin. Phương Tây đang đối mặt với ham muốn lập lại trật tự thế giới theo cách phi Phương tây ở những nơi khác…

Thứ năm, đặc điểm và những khác biệt văn hóa càng ít biến đổi hơn và do vậy càng khó thỏa hiệp và giải quyết hơn so với những đặc điểm chính trị và kinh tế. Trong Liên bang Xô Viết cũ, người thuộc phe cộng sản có thể trở thành người thuộc đảng dân chủ, người giàu có thể thành người nghèo, nhưng người Nga không thể biến thành người Estonia, và người Azeria không thể biến thành người Armenia. Trong mâu thuẫn về tầng lớp và hệ tư tưởng, câu hỏi chủ đạo là “Anh thuộc phe nào?” và người ta có thể chọn và thay đổi phe mình muốn. Nhưng trong mâu thuẫn về văn minh, câu hỏi là “Anh là cái gì?” Thứ đã được chọn không thể được thay đổi. Và như chúng ta đã biết, từ Bosnia đến Caucasus đến Sudan, câu trả lời sai có thể nghĩa là một viên đạn nát đầu. Thậm chí cao hơn vấn đề chủng tộc, tôn giáo phân biệt rất sâu sắc giữa người với người. Một người có thể mang nửa dòng máu Pháp, một nửa Ả-rập và cùng lúc là công dân của cả hai quốc gia. Nhưng rất khó để vừa mang đạo Cơ Đốc vừa mang đạo Hồi.

Cuối cùng, chủ nghĩa khu vực kinh tế ngày càng phát triển. Tỉ lệ thương mại nội khối từ năm 1980 đến 1989 tăng lên từ 51% lên 59% ở Châu Âu, tăng từ 33% lên 37% ở Đông Á, và từ 32% lên 36% ở Bắc Phi. Tầm quan trọng của các khối kinh tế có xu hướng gia tăng trong tương lai. Một mặt, chủ nghĩa khu vực kinh tế thành công sẽ đẩy mạnh ý thức văn minh. Mặt khác, chủ nghĩa khu vực kinh tế sẽ chỉ thành công nếu xuất phát từ nền văn minh chung. Cộng đồng châu Âu tồn tại dựa vào sự tương đồng văn hóa và Cơ đốc giáo Phương tây. Thành công của Khu vực tự do Thương mại Bắc Mỹ phụ thuộc vào sự hội tụ văn hóa của Mexico, Canada và Mỹ. Nhật Bản, trái lại, đang phải đối với những khó khăn khi xây dựng một thực thể kinh tế ở Đông Á bởi vì Nhật Bản là một xã hội và nền văn minh độc nhất…

Sự va chạm giữa các nền văn minh xảy ra ở hai cấp bậc. Ở cấp bậc nhỏ, những nhóm cạnh nhau giữa những nền văn hóa đấu tranh với nhau nhằm kiểm soát lãnh thổ. Ở cấp bậc lớn, các quốc gia thuộc những nền văn minh cạnh tranh với nhau để đạt quyền lực về quân sự và kinh tế, các tổ chức quốc tế, và các bên thứ ba, và đẩy mạnh những giá trị chính trị và tôn giáo của mình.

Theo VIETFIN.NET

Tags: