Quan điểm Marxist về phát triển bền vững trên nền tảng đồng tiến hóa con người – tự nhiên

con người với tính cách một sinh vật phát triển nhất phải nuôi dưỡng một ý thức tôn trọng sự tồn tại của mọi khách thể khác thay vì sự ngự trị của thế giới quan cũ với quan niệm cho rằng, con người là chúa tể của muôn loài, có quyền năng vô hạn trước tự nhiên.

Quan điểm Marxist về phát triển bền vững trên nền tảng đồng tiến hóa con người – tự nhiên

Tác giả: TS. Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

Nguồn: Tạp chí Triết học, số 3 (190), tháng 3/2007.

Môi trường tự nhiên là điều kiện sống vô cùng cần thiết và không thể thay thế đối với con người. Trong điều kiện hiện nay, khi mà vấn đề môi trường sống đã trở thành một vấn đề toàn cầu, cả hai khuynh hướng hoặc là tuyệt đối hoá yêu cầu bảo vệ môi trường đến mức cực đoan, hoặc là chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế đều không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại. Bởi vậy, phát triển bền vững, trong đó bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường, là sự lựa chọn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan. Nền tảng của sự phát triển bền vững chính là dựa trên sự đồng tiến hoá giữa con người và tự nhiên. Triết lý của các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx đã chỉ rõ cơ sở hiện thực của chiến lược phát triển bền vững; nó không chỉ khẳng định vai trò của con người, mà còn làm nổi bật sự quy định lẫn nhau của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, sự đồng tiến hoá của con người và tự nhiên.

Môi trường tự nhiên đóng vai trò đặc biệt quan trọng và không thể thay thế đối với sự tồn tại, phát triển của con người cũng như của xã hội loài người. Điều này thể hiện trước hết ở chỗ, về mặt nguồn gốc, như các tài liệu khoa học đã chỉ ra, con người được sinh thành do sự tiến hoá lâu dài của tự nhiên chứ không phải là kết quả từ sự “nhào nặn” của một lực lượng siêu nhiên nào đó theo quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, con người với bộ óc biết tư duy sáng tạo của mình là sản phẩm cao nhất của sự tiến hoá trong nhiều triệu năm của vật chất, là “một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên sản sinh ra được”(1). Mặt khác, lịch sử xã hội loài người đã, đang và sẽ tiếp tục chứng minh rằng, tự nhiên là môi trường sống không thể thiếu của con người. Chính vì thế, con người cần chung sống hài hoà với tự nhiên, hay nói cách khác, đồng tiến hoá giữa con người và tự nhiên là một trong những nền tảng cơ bản của phát triển bền vững.

Do ảnh hưởng và tác động của cách mạng công nghiệp vào đầu thế kỷ 18, đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ từ giữa thế kỷ 20, cho đến nay, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã có sự thay đổi sâu sắc cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Như chúng ta đã thấy, để thoả mãn nhu cầu vật chất ngày càng tăng của mình, con người đã tìm mọi biện pháp để thúc đẩy, mở rộng các hoạt động sản xuất và trong suốt một thời gian dài, tăng trưởng kinh tế trở thành mục tiêu trung tâm, chiếm vị trí ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới. Theo đó, phạm vi và mức độ tác động của con người vào giới tự nhiên ngày càng gia tăng. Quả thực, vượt lên rất xa so với cái bản năng sống dựa vào những sản phẩm tự nhiên sẵn có như trong buổi bình minh của lịch sử loài người, cùng với sự phát triển của mình, con người – nhờ sức lao động và các phương tiện trợ giúp ngày càng hiện đại – đã in dấu ấn đậm nét lên tự nhiên, biến những cái dường như không thể trở thành những cái có thể để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của mình. Từ chỗ chỉ biết lợi dụng tự nhiên, sống dựa vào tự nhiên một cách thụ động, con người đã tiến đến cải tạo, biến đổi tự nhiên theo ý muốn của mình; từ chỗ bị các lực lượng tự nhiên chi phối, con người đã dần vươn lên chế ngự tự nhiên. Những thành tựu mà con người đạt được, xét riêng về phương diện kinh tế, là hết sức vĩ đại. Nó thể hiện sức mạnh, năng lực cải biến tự nhiên để làm nên lịch sử của con người. Với một ý nghĩa nhất định, đó phải được coi là một dấu hiệu của sự tiến bộ, của sự phát triển xã hội nói chung và của mỗi người nói riêng.

Tuy nhiên, xét từ góc độ sinh thái học, dường như cái gọi là những thành tựu trong tiến trình chinh phục tự nhiên lại đang “chống lại” con người. Trên thực tế, ngày nay, con người đang phải gánh chịu sự “trừng phạt” của tự nhiên do những hành động thái quá, phiến diện của mình.

Thực vậy, do sức hút của nguồn siêu lợi nhuận thu được từ hoạt động khai thác tự nhiên cũng như đòi hỏi thoả mãn các nhu cầu vật chất ngày càng tăng của con người, hoặc cũng có thể do sự thiển cận, phiến diện của những chiến lược, chính sách phát triển kinh tế trước đây, con người đã vô tình hay cố ý không tính đến ngày mai của chính mình và lợi ích của các thế hệ tương lai. Trước khi tiếng chuông cảnh tỉnh về những nguy cơ, thảm hoạ môi trường sinh thái được gióng lên, ở tất cả các nước, tuỳ theo trình độ phát triển, người ta tìm mọi cách để có thể khai thác tài nguyên một cách tối đa, không bận tâm đến những hậu quả môi sinh, bất chấp lợi ích cũng như quyền được hưởng những nguồn lợi tự nhiên của các thế hệ tương lai.

Như chúng ta đã biết, trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con người với tính cách động vật biết chế tạo và sử dụng các công cụ lao động đã không ngừng gia tăng năng lực “chinh phục” tự nhiên. Với sự trợ giúp của các phương tiện lao động mới, đặc biệt là các tiến bộ khoa học và công nghệ, con người đã tác động mạnh mẽ vào tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị vật chất mới. Cùng với thời gian, với sự phát triển của đại công nghiệp và khoa học kỹ thuật, con người mải miết theo đuổi những kế hoạch, những dự án cải tạo tự nhiên để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và say sưa với những thành tựu của mình. Trong khi đó, tự nhiên đã phải “gồng mình” để chịu đựng những tổn thương tích tụ ngày càng lớn do tác động của con người, cả về phạm vi lẫn tính chất nghiêm trọng. Hàng loạt vấn đề môi trường bức bách, từ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sống, suy giảm đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái đến những căn bệnh hiểm nghèo… đang đe doạ sự tồn tại và phát triển của con người. Những vấn đề đó đã trở thành một hiện tượng phổ biến, hiện hữu ở khắp mọi nơi, bất kể nước giàu hay nước nghèo, nước phát triển hay nước chậm phát triển. Có thể nói, ngày nay, môi trường sinh thái đã trở thành một vấn đề toàn cầu. Và, con người đang phải trả giá cho những hành vi “tước đoạt” tự nhiên một cách bất chấp quy luật.

Thực tế đó đã chứng minh rằng, cho đến nay, tiên đoán khoa học vượt trước thời đại của F. Engels về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là trong hoàn cảnh con người đang phải đối mặt với những vấn đề môi trường nảy sinh do sự sai lầm, cực đoan, thái quá trong tiến trình “chinh phục tự nhiên” của mình.

Vào khoảng giữa thế kỷ 20, trước những nguy cơ, hiểm hoạ môi trường sinh thái, một khuynh hướng cực đoan – chủ trương giảm đến mức tối đa sự tác động của con người lên tự nhiên đã xuất hiện. Có thể nói, ý tưởng cho rằng có thể bảo vệ được môi trường sinh thái bằng cách không tác động vào tự nhiên chỉ là một ảo tưởng, bởi con người không thể chấp nhận một hệ số phát triển bằng không. Về thực chất, đó chỉ là một cách phản ứng tiêu cực, một lựa chọn thể hiện sự bế tắc trong cuộc sống mà hoàn toàn không phải là lối thoát khôn ngoan, tiến bộ và văn minh.

Một khuynh hướng khác cũng hết sức sai lầm là quan điểm cho rằng, cần phải tăng trưởng kinh tế trước, từ đó mới có cơ sở để thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường. Nói theo ngôn ngữ của y học, chấp nhận giải pháp “chữa bệnh” thay vì chủ động “phòng bệnh”, tức là đi ngược lại với phương châm của y học truyền thống và hiện đại. Trên thực tế, dù đã được cảnh báo và chứng kiến những hậu quả to lớn về mặt môi sinh, song ở không ít quốc gia, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển và đang phát triển, mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn chiếm vị trí ưu tiên hơn so với mục tiêu bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Giải quyết công ăn việc làm, khắc phục tình trạng đói nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất cho con người cũng như xây dựng tiềm lực kinh tế cho đất nước… là những nhu cầu chính đáng và cấp thiết. Nhưng, nếu vì thế mà chỉ coi trọng tăng trưởng kinh tế, tiếp tục bỏ qua hoặc xem nhẹ yêu cầu bảo vệ và cải thiện môi trường thì lại là một sai lầm với những hậu quả đã thấy trước. Có thể khẳng định rằng, nếu khuynh hướng này không sớm được điều chỉnh thì thay vì tạo nên một cuộc sống có chất lượng cao hơn, con người lại tạo ra những yếu tố để tự phủ định sự tồn tại, phát triển của chính bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa rằng, quan niệm coi phát triển trước hết và chủ yếu là tăng trưởng kinh tế đã không còn phù hợp và cần được thay đổi.

Rõ ràng, cả hai khuynh hướng: hoặc là tuyệt đối hoá yêu cầu bảo vệ môi trường đến mức cực đoan, hoặc là chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế đều không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại. Trên thực tế, hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường dường như có sự mâu thuẫn. Nhưng, con người cũng không thể chỉ lựa chọn hoặc là cái này, hoặc là cái kia. Trong điều kiện hiện tại, kết hợp, gắn liền mục tiêu tăng trưởng kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên nhằm tạo nên sự chung sống hoà bình, cùng phát triển giữa con người với tự nhiên là phương án hữu hiệu hơn, thực tế hơn, thể hiện sự khôn khéo, thông minh của con người.

Trước những bức bách của vấn đề môi trường sinh thái, cũng như sự lo ngại về triển vọng phát triển của con người trong hiện tại và tương lai, nhận thức về tự nhiên, về mối quan hệ giữa tự nhiên, xã hội và con người đã có những thay đổi căn bản. Thay vì coi tự nhiên là nguồn của cải vô tận và chỉ biết khai thác từ đó những gì có lợi cho mình như trước đây, con người ngày nay đã nhận ra rằng, tự nhiên là một thể thống nhất và sức chịu đựng của nó trước những tác động của con người không phải là vô hạn; rằng, bên cạnh việc sử dụng, khai thác tự nhiên, con người còn phải bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, phải “chung sống hài hòa” với tự nhiên.

Từ sau Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Môi trường và phát triển họp tại Rio de Janeirio, Braxin năm 1992, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã trở thành đặc trưng cơ bản của thời đại. Phát triển bền vững được xem là một lựa chọn tối ưu, là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới trong điều kiện hiện nay. Thoạt đầu, phát triển bền vững được nhấn mạnh như là sự phát triển lâu dài dưới góc độ môi trường. Ngày nay, khái niệm này được phân tích rộng hơn, bao gồm ba chiều cạnh (hay nhằm đến 3 mục tiêu) chủ yếu: tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội. Như vậy, có thể hiểu phát triển bền vững là sự phát triển mà trong đó, bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường. Theo đó, có thể nhận thấy rằng, một trong những cơ sở, nền tảng chủ yếu của phát triển xã hội bền vững chính là sự đồng tiến hoá giữa con người và tự nhiên. Sự đồng tiến hoá ấy, theo chúng tôi, là sự cùng tồn tại, quy định lẫn nhau và cùng phát triển của con người và tự nhiên.

Có thể nói, tuy còn manh nha, chưa hoàn chỉnh hoặc ít nhiều còn mang mầu sắc thần bí, song tư tưởng về mối quan hệ gắn bó, khăng khít giữa con người và tự nhiên đã nảy nở ngay từ thời cổ đại. Trong quan niệm của một số tôn giáo và học thuyết triết học phương Đông truyền thống, con người không đối lập với giới tự nhiên, mà luôn được coi là một thành tố, một bộ phận của giới tự nhiên. Nho giáo cho rằng, con người sống giữa trời đất, giữa vạn vật nên quan hệ của con người với trời đất là quan hệ “thiên nhân cảm ứng”. Tương tự như vậy, Đạo giáo cũng coi trọng sự hoà hợp, thống nhất của con người trong quan hệ với tự nhiên, với vạn vật trong vũ trụ. Quan niệm về sự hài hoà của Lão Tử chứa đựng hai nội dung chính: con người và trời đất dựa vào nhau để tồn tại, phát triển (thiên nhân hợp nhất); quan hệ thuận hoà giữa con người với con người. Với quan niệm ấy, ông đã đưa ra một triết lý nhân sinh: con người phải sống thanh tịnh, thuận theo tự nhiên, không trái với tự nhiên. Trang Tử quan niệm rằng, giữa vật và ta có sự bình đẳng; rằng, trời đất cùng sinh với ta, vạn vật với ta là một… Phật giáo nguyên thuỷ coi mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời là điều kiện cho sự tồn tại của nhau. Ở Việt Nam, tư tưởng về sự hoà hợp giữa con người và tự nhiên cũng xuất hiện khá sớm.

Khác với phương Đông, ở phương Tây, tồn tại khuynh hướng đề cao đến mức tuyệt đối hoá con người trong mối quan hệ với tự nhiên. Triết học Hy – La cổ đại tôn vinh vị trí và vai trò con người. Protagor coi con người là thước đo của vạn vật. Chủ nghĩa duy lý thế kỷ 16 – 18 đã nhấn mạnh rằng, con người là trung tâm của vũ trụ, là chúa tể của giới tự nhiên. Kitô giáo quan niệm thế giới và con người là sản phẩm do Chúa sáng tạo ra; con người là hình ảnh của Chúa nên con người cũng có khả năng sáng tạo và có quyền thống trị giới tự nhiên… Những quan niệm đó là cơ sở cho sự nảy nở và phát triển triết lý con người chinh phục theo kiểu “thống trị”, “tước đoạt” tự nhiên trong suốt một thời gian dài, để lại những hậu quả môi trường to lớn mà ngày nay, con người đang phải nỗ lực tìm cách khắc phục.

Với luận điểm nổi tiếng – triết học không chỉ giải thích thế giới, mà còn cải tạo thế giới, – triết học Marx cũng không nằm ngoài truyền thống con người chinh phục tự nhiên của văn hoá châu Âu. Tuy nhiên, cần phải thấy là, cái triết lý con người cải tạo thế giới và chinh phục tự nhiên của triết học Marx khác hẳn với quan niệm truyền thống của phương Tây(2).

Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó, giữa con người và giới tự nhiên có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, K.Marx khẳng định “Giới tự nhiên … – là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”(3) và bản thân lịch sử là một bộ phận hiện thực của lịch sử tự nhiên, của sự sinh thành của tự nhiên bởi con người. Với quan niệm đó, K. Marx kết luận rằng, chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau. Theo đó, quan hệ giữa con người và tự nhiên là quan hệ đồng tiến hoá, cùng tồn tại và phát triển. Con người và xã hội loài người không thể có sự phát triển ổn định, bền vững và hài hoà nếu con người đối xử thô bạo với tự nhiên – cái “nôi”, cội nguồn, “thân thể vô cơ” của mình.

Như đã nói trên, hệ thống tự nhiên – xã hội – con người là một thể thống nhất. Bản thân giới tự nhiên cũng là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, tồn tại và phát triển theo những quy luật của nó. Sự cân bằng của hệ thống chỉ có thể được giữ vững và không bị phá vỡ khi sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành được duy trì trong phạm vi phù hợp, được quy định bởi các quy luật khách quan, nội tại của chính tự nhiên. Chính sự liên hệ, gắn bó chặt chẽ giữa các yếu tố cấu thành đã quy định tính chất phản ứng dây chuyền của môi trường tự nhiên diễn ra khi sự tác động vào một yếu tố nào đó trong hệ thống lớn hơn giới hạn chịu đựng tự nhiên của nó. Tính chất này khiến cho những vấn đề môi trường sống nảy sinh do tác động của con người càng trở nên phức tạp hơn và có thể để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng hơn. Trên thực tế, một vấn đề môi trường này có thể là kết quả nảy sinh từ một vấn đề môi trường liên quan khác; đồng thời, nó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của một vấn đề môi trường mới. Trong khi đó, như F. Engels đã chỉ rõ, tất cả các phương thức sản xuất đã có từ trước đến nay chỉ nhằm đạt được những hiệu quả có ích gần nhất và trực tiếp nhất của lao động, nhưng lại không chú ý đến những hậu quả xa xôi – không chỉ là những hậu quả tự nhiên, mà cả những hậu quả xã hội, sau này mới xuất hiện. Với nhãn quan biện chứng, coi trong giới tự nhiên không có cái gì xảy ra một cách đơn độc cả, F. Engels cho rằng, chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự nhiên; đồng thời, ông cảnh báo con người không nên quá tự hào về thắng lợi của mình đối với giới tự nhiên. Bởi vì, mỗi kết quả mà con người coi là một kỳ tích chinh phục tự nhiên, tới một lúc nào đó, có thể gây ra những tác dụng hoàn toàn khác hẳn, không lường trước được(4).

Phải chăng, có sự mâu thuẫn trong tư tưởng của K. Marx và F. Engels khi, một mặt, các ông khẳng định con người – với năng lực và sự sáng tạo phi thường của mình – có thể và cần phải cải tạo thế giới, trong đó có giới tự nhiên; mặt khác, lại cho rằng, sự tác động của con người vào giới tự nhiên có thể gây nên những hậu quả môi sinh nghiêm trọng không lường trước được? Theo chúng tôi, hoàn toàn không có sự mâu thuẫn trong tư tưởng của K. Marx và F. Engels; trái lại, nó phản ánh chính lôgíc của thực tiễn. Hoạt động lao động nhằm cải tạo tự nhiên là tiền đề, điều kiện cần thiết để con người duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. Tuy nhiên, con người cũng chỉ là một bộ phận của tự nhiên nên nó không thể đối xử với tự nhiên bằng thái độ và hành động của kẻ đứng ngoài tự nhiên, không tính đến hoặc bất chấp các quy luật của tự nhiên. Do vậy, để tạo nên quan hệ hài hoà giữa con người và tự nhiên – nền tảng cho sự phát triển bền vững của xã hội, con người phải có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của giới tự nhiên, về vị trí của con người trong hệ thống tự nhiên – xã hội – con người; cần phải nâng cao sự hiểu biết về cái “thân thể vô cơ” – cái thân thể mà thiếu nó, cũng không có sự tồn tại, phát triển của con người, đồng thời tự giác điều chỉnh hành động của mình phù hợp với quy luật của giới tự nhiên.

Một trong những ưu thế làm nên sức mạnh và cũng là điểm khác biệt quan trọng của con người so với các loài động vật khác là ở chỗ, con người biết tư duy, có thể nhận thức được các quy luật khách quan của tự nhiên và do đó, hành động ngày càng phù hợp với các quy luật ấy. Với quan điểm biện chứng và khoa học, F. Engels khẳng định: “Sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác”(5). Nhờ có năng lực nhận thức và sử dụng được những quy luật của giới tự nhiên, con người có thể dự báo, tiên liệu được những hậu quả môi sinh để chủ động định hướng và điều chỉnh hành động của mình.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, khi nhấn mạnh năng lực chinh phục giới tự nhiên của con người, K. Marx và F. Engels chỉ hàm ý đề cập đến hoạt động mang tính tự giác của con người – hoạt động tiến hành trên cơ sở nhận thức được quy luật của tự nhiên, chứ không phải là những hành động mù quáng theo kiểu “thống trị”, “tước đoạt”, bất chấp quy luật nội tại, khách quan của giới tự nhiên. Triết lý của các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên đã chỉ rõ cơ sở hiện thực của chiến lược phát triển bền vững mà ngày nay, con người đang hướng tới – đó là con người có thể nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và vận dụng chúng một cách tự giác, có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn, trước hết là trong hoạt động sản xuất vật chất của mình. Triết lý đó không chỉ khẳng định vai trò của con người, mà còn làm nổi bật sự quy định lẫn nhau của lịch sử tự nhiên và lịch sử con người, sự đồng tiến hoá giữa con người và tự nhiên.

Từ giữa những năm 80 của thế kỷ 20, cách nhìn nhận của con người về vai trò của tự nhiên đối với sự phát triển trong hiện tại và tương lai của thế giới ngày càng hiện thực hơn, chính xác hơn. Con người, tự nhiên và xã hội với tích cách những tiểu hệ thống được xem xét trong một chỉnh thể thống nhất. Các yếu tố đó luôn có sự liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, chứ không phải chỉ có chiều con người, xã hội tác động đến tự nhiên. Giới tự nhiên cũng được con người nhìn nhận một cách biện chứng hơn. Theo đó, có ý kiến cho rằng, tự nhiên không phải là một tập hợp các khách thể, mà là một cộng đồng các khách thể(6). Trong cộng đồng mà con người cũng chỉ là một thành viên đó, mọi sinh vật đều có quyền tồn tại và con người cần phải tôn trọng cái quyền ấy của các sinh thể khác. Nhìn nhận vấn đề từ góc độ giá trị và đạo đức, Aurelio Peccei quan niệm rằng, mỗi một hình thể sống (động, thực vật) được tự nhiên sinh ra và trải qua quá trình tiến hoá lâu dài đều là một thể vi mô chứa đựng trong nó những nguồn thông tin quý giá. Theo ông, nếu huỷ hoại những hình thể của sự sống, dù vô tình hay cố ý, con người sẽ phạm vào một tội ác còn lớn hơn việc đốt cháy các thư viện, bởi làm cho chúng trở nên tuyệt chủng đồng nghĩa với sự huỷ diệt vĩnh viễn những nguồn thông tin (gen) không đâu có, ngoài cái hình thức tự nhiên và ưu việt kia. Đồng thời, xét từ góc độ đạo lý, nếu làm như vậy thì con người đã vô tình loại trừ nhiều dạng sống mà lẽ ra, chúng có quyền tồn tại(7).

Yêu cầu bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường còn được tiếp cận từ một góc độ khác – sự công bằng giữa các thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai về quyền được hưởng thụ những tài nguyên và sống trong môi trường trong sạch. Nhiều nhà khoa học ở Mỹ, Canađa… đã đưa ra quan niệm cho rằng, sự phát triển của thế hệ hiện tại không phải là dựa vào sự thừa kế tài nguyên thiên nhiên của ông cha để lại, mà là vay mượn của con cháu mình. Vì thế, các lựa chọn phát triển, ngoài việc đáp ứng nhu cầu của những thế hệ hiện tại, còn phải tính đến lợi ích, đến quyền lợi của thế hệ tương lai.

Do vậy, con người với tính cách một sinh vật phát triển nhất phải nuôi dưỡng một ý thức tôn trọng sự tồn tại của mọi khách thể khác thay vì sự ngự trị của thế giới quan cũ với quan niệm cho rằng, con người là chúa tể của muôn loài, có quyền năng vô hạn trước tự nhiên. Bởi vì, chính quan niệm cũ và niềm tin hết sức ích kỷ, sai lầm ấy đã đưa con người tới những hành động thái quá, thậm chí là những hành động mang tính cực đoan đối với tự nhiên.

Môi trường là ngôi nhà chung mà tất cả mọi người, không phân biệt màu da, sang hèn, giàu nghèo,… đều có lợi ích của mình ở đó; do vậy, tôn trọng tự nhiên, bảo vệ môi trường phải là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng và của toàn thế giới. Phát triển xã hội một cách bền vững và hài hoà trên cơ sở đồng tiến hoá giữa con người và tự nhiên là cái đích mà thế giới đương đại đang hướng đến.

——————————

Chú thích:

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.475.
(2) Xem: Hồ Sĩ Quý (chủ biên). Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.48.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.135.
(4) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t. 20, tr.654.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr. 655.
(6) Xem: Đỗ Duy Minh. Bước ngoặt tinh thần trong triết học. Tạp chí Triết học, số 7, 2006, tr.33.(
(7) Xem: Hồ Sĩ Quý (chủ biên). Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người trong sự phát triển xã hội. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 122.

Theo TẠP CHÍ TRIẾT HỌC

Tags: , ,