Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam – thực trạng và khuyến nghị

Ngày nay, xu hướng cạn kiệt của các nguồn tài nguyên đất liền ngày càng đẩy mạnh khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển và làm giàu từ biển. Cùng với những đóng góp to lớn từ khai thác tài nguyên biển vào quá trình phát triển chung của đất nước, môi trường biển ở nhiều khu vực đang đứng trước nhiều thách thức. Ô nhiễm biển đến mức báo động đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng, cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia. Bài viết này trình bày thực trạng các vấn đề môi trường biển đang đối mặt hiện nay ở nước ta và tổng kết một số khuyến nghị về hướng giải pháp cụ thể nhằm hướng đến quản lý bền vững và bảo vệ môi trường biển.

Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam – thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: TS. Đặng Trung Tú, ThS. Phạm Thị Hà, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường.

Bài viết đã được công bố trong Hội thảo “Đánh giá những yếu tố tác động đến nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự các tỉnh, thành ven biển góp phần phục vụ chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam” do Cục Khoa học Chiến lược và Lịch sử Công an, Bộ Công an tổ chức, tháng 6 năm 2019.

Trải dài hơn 3.260 km bờ biển, Việt Nam có vùng biển lớn đứng thứ 27 trong 157 quốc gia ven biển và các quốc đảo. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, diện tích biển của nước ta chiếm khoảng 30% diện tích Biển Đông và được công nhận là một trong những vùng biển giàu tài nguyên thiên nhiên, địa chính trị quan trọng ở khu vực và thế giới. Vùng bờ của Việt Nam được quy định trong Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo bao gồm vùng nước biển ven bờ có ranh giới phía ngoài cách bờ biển khoảng 06 hải lý và vùng đất ven biển là các xã, phường, thị trấn giáp biển thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển. Biển Việt Nam tương đối giàu tài nguyên, các giá trị văn hóa – lịch sử; là nơi tập trung nhiều ngành kinh tế trọng điểm của quốc gia; vùng ven biển có mật độ tập trung đông dân cư nhất cả nước. Theo Niên giám thống kê Việt Nam năm 2018, dân số của 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển là khoảng 47 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số của cả nước.

Hiện nay, trong bối cảnh các nguồn tài nguyên đất liền ngày càng cạn kiệt, sức ép của tốc độ gia tăng dân số, nhu cầu phát triển kinh tế dẫn đến khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển, làm giàu từ biển ngày càng được đẩy mạnh. Tuy nhiên, các hoạt động khai thác chủ yếu chỉ tập trung vào các mục tiêu phát triển kinh tế, nhiều phương thức khai thác thiếu tính bền vững, trong khi xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường biển còn phổ biến; không có hoặc thiếu những quy hoạch, kế hoạch chi tiết, cụ thể, cùng với cơ chế quản lý lỏng lẻo của các cấp chính quyền, đặc biệt trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu với các biểu hiện chính là sự gia tăng mực nước biển và nhiệt độ của Trái đất. Vấn đề khai thác tài nguyên quá mức và ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực biển trong cả nước đang đứng trước nhiều thách thức

1. Khai thác tài nguyên, phát triển kinh tế và những vấn đề ô nhiễm biển Việt Nam hiện nay

Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế biển đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên, trong 10 năm qua, mức đóng góp của kinh tế biển và ven biển vào GDP cả nước đã giảm từ 48% năm 2005 (Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020), xuống còn 40,73% năm 2010 và 32,55% năm 2015 (Báo cáo cung cấp số liệu của Tổng cục Thống kê phục vụ tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam). Năm 2017, mức đóng góp này ước đạt 30,19%, trong đó GRDP của 144 huyện, thị ven biển chiếm 24,68%; GDP của kinh tế biển chiếm 5,51%.

Cùng với những đóng góp to lớn cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế chung của cả nước, biển Việt Nam đã và đang đối mặt với hàng loạt các vấn đề môi trường. Theo kết quả nghiên cứu tổng hợp của Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, trong những năm vừa qua các mối đe dọa chính mà môi trường biển đang phải đối mặt rất phổ biến và đang ở mức độ báo động cao đó là: (i)  Ô nhiễm nguồn gốc từ lục địa và từ biển, (ii) Phá hủy nơi cư trú tự nhiên, (iii) Khai thác và đánh bắt cá quá mức, (iv) Tác động của biến đổi khí hậu. Cụ thể:

– Gia tăng các nguồn ô nhiễm biển: Việc gia tăng các nguồn thải từ lục địa, đặc biệt là theo các dòng chảy sông ra biển dẫn đến môi trường biển nhiều nơi đang có xu hướng suy giảm về chất lượng. Nhiều vùng cửa sông ven biển đã bị ô nhiễm do nước thải công nghiệp, đô thị. Tình trạng xả thải các chất thải chưa qua xử lý hay xử lý chưa đạt quy chuẩn đang diễn biến ngày càng phức tạp ngay tại các tỉnh ven biển, gây thiệt hại lớn về kinh tế, đời sống, sinh kế của cộng đồng dân cư ven biển và những tổn hại khó lường đối với các hệ sinh thái, sinh vật biển. Theo ước tính của các nhà khoa học, 80% lượng rác thải ra biển xuất phát từ các hoạt động trên đất liền. Việt Nam có 112 cửa biển, đây chính là nguồn để rác trôi ra đại dương. Nhiều sinh vật nhầm tưởng rác thải là thức ăn hoặc mắc kẹt giữa các ngư cụ dẫn đến việc sinh cảnh bị phá huỷ. Đại diện Chương trình Môi trường Liên hợp quốc công bố năm 2018, mỗi năm Việt Nam xả ra đại dương 0,28 đến 0,73 triệu tấn rác thải nhựa (chiếm 6% toàn thế giới), đứng thứ 4 thế giới. Ô nhiễm rác thải biển không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng môi trường, hệ sinh thái mà còn tác động đến phát triển kinh tế, cộng đồng dân cư ven biển; tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, an ninh lương thực.

Ô nhiễm chất hữu cơ và dầu mỡ đã và đang diễn ra khá phổ biến ở các tỉnh thành ven biển Việt Nam, đặc biệt là vùng cửa sông các tỉnh phía Bắc và dọc dải ven biển đồng bằng sông Cửu Long. Ô nhiễm hữu cơ tuy chỉ có tính cục bộ nhưng khá cao và vượt mức cho phép ở gần các khu du lịch, đông dân trải dài từ Bắc vào Nam, như Cửa Lục, Sầm Sơn, Đà Nẵng, Nha Trang và Vũng Tàu… Ở những khu vực này, phú dưỡng, thuỷ triều đỏ và tảo độc hại đã là một vấn đề môi trường nổi bật.

Theo số liệu quan trắc nhiều năm, hàm lượng chất rắn lơ lửng luôn ở mức tương đối cao tại vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Hàm lượng amoni (NH4+) tại hầu hết các khu vực đã ở mức cao vượt ngưỡng cho phép, đặc biệt là ở khu vực biển ven bờ miền Bắc. Hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước biển vượt ngưỡng cho phép tại hầu hết các khu vực cảng biển và có xu hướng gia tăng, nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động của các tàu thuyền làm rò rỉ nhiên liệu dầu mỡ.

Các sự cố môi trường do tràn dầu, hóa chất, xói lở bờ biển… ngày càng gia tăng. Gần đây nhất, điển hình là sự cố ô nhiễm môi trường biển do việc xả thải từ Khu công nghiệp Vũng Áng, Hà Tĩnh của Tập đoàn Formosa trong năm 2016. Theo báo cáo của Chính phủ công bố, những thiệt hại về kinh tế và xã hội là rất lớn. Về kinh tế, riêng số hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100 tấn. Lâu dài, do các rạn san hô, phù du sinh vật cũng chết, khiến suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản khu vực. Ảnh hưởng đến sinh kế lâu dài của người dân vùng ven biển: hơn 17.600 tàu cá và gần 41.000 người đã bị ảnh hưởng trực tiếp; hơn 176.000 người phụ thuộc bị ảnh hưởng. Sản lượng khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng. Hoạt động nuôi trồng thủy sản: có khoảng 9 triệu tôm giống bị chết, hàng ngàn lồng nuôi cá cũng bị thiệt hại. Ngoài ra, sự cố cũng gây ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động du lịch biển ở các địa phương này. Về xã hội, sự việc gây ô nhiễm môi trường biển Formosa đã khiến giảm lòng tin của người dân vào Chính phủ và các cơ quan liên quan.

Hoạt động dầu khí, vận tải biển, với quy mô khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí và 272 bến cảng biển đang hoạt động với tổng công suất trên 550 triệu tấn/năm, nhiều năm qua có đóng góp lớn cho nền kinh tế. Ngoài nước thải lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trên 15 nghìn tấn dầu mỡ trôi nổi, trong đó 23 – 30% là chất thải rắn nguy hại chưa xử lý (Các năm 2006 – 2007 có khoảng 21.600 – 51.800 tấn dầu trôi nổi gây ô nhiễm biển Việt Nam từ Bắc đến Nam, trong đó chỉ có 20 tỉnh, thành ven biển đã vớt và xử lý 1.721 tấn, số còn lại khuyếch tán, lan rộng, gây hậu quả cho thực vật và sinh vật biển)… Ngoài ra, sự cố tràn dầu cũng là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến môi trường biển. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong giai đoạn 1992 – 2015 đã có 54 vụ tràn dầu nghiêm trọng xảy ra tại vùng biển Việt Nam (Từ năm 2010 đến 2017, có đến trên 100 vụ việc tràn dầu từ tàu biển lớn nhỏ, nhiều vụ rò rỉ khối ượng lớn: tàu chở hàng Onnekas One (quốc tịch Malaysia) gặp nạn trên khu vực biển tỉnh Thừa Thiên Huế (ngày 23/12/2012); sự cố sà lan AZ Beijing chìm tại Kiên Giang năm 2012; sự cố 10 tàu hàng gặp nạn do bão số 12 tại vùng biển Quy Nhơn trong tháng 11/2017).

– Khai thác biển thiếu bền vững, gia tăng tốc độ suy giảm đa dạng sinh học

Tài nguyên biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững; nạn phá hủy rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn ngày càng gia tăng ở nhiều nơi. Theo ước tính, cỏ biển trên toàn vùng biển nước ta từ Quảng Ninh đến Hà Tiên đã mất khoảng 40 – 60%; rừng ngập mặn mất đến 70%; và khoảng 11% các rạn san hô đã bị phá hủy hoàn toàn, không có khả năng tự phục hồi. Những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh hầu như không còn. Sự suy giảm trầm trọng diện tích rừng ngập mặn đã kéo theo sự suy giảm đa dạng sinh học biển, đặc biệt mất bãi đẻ và nơi cư ngụ của các loài thủy sinh (Chuyên đề sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 24).

Hệ sinh thái thảm cỏ biển là một trong những hệ sinh thái biển quan trọng, nhưng hiện nay đang đứng trước nguy cơ bị tổn thương và suy thoái. Sự suy thoái hệ sinh thái thảm cỏ biển thể hiện trên các khía cạnh như giảm số lượng cá thể và số loài, thu hẹp diện tích phân bố, ô nhiễm, thoái hóa môi trường sống, giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi kinh tế của các loài quý hiếm kèm theo. Thảm cỏ biển phân bố từ Bắc vào Nam và ven các đảo, ở độ sâu từ 0 – 20m, hiện chỉ còn khoảng trên 5.583ha. Một số khu vực, thảm cỏ biển hầu như không có cơ hội để phục hồi tự nhiên do có quá nhiều tác động do hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản ở khu vực này (Cát Bà, Hạ Long, Quảng Nam…).

Trong vòng hơn 20 năm qua, Việt Nam đã mất 12% số rạn san hô; 48% số rạn san hô khác đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Diện tích các rạn san hô bị mất, tập trung chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như vịnh Hạ Long, các tỉnh ven biển miền Trung và một số đảo có người sinh sống thuộc quần đảo Trường Sa, nhiều nơi độ phủ giảm trên 30%. Sự suy giảm diện tích và những tổn thương của nhiều rạn san hô làm suy giảm đa dạng sinh học, sinh thái và chất lượng môi trường biển; thiệt hại cho ngành du lịch và thủy sản và sinh kế của các cộng đồng vùng ven biển. Hiện nay mặc dù đã nghiên cứu trồng và phục hồi, tái tạo thành công san hô ngoài tự nhiên, nhưng diện tích được phục hồi còn rất thấp.

– Khai thác và đánh bắt cá quá mức: Đến nay đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ đe dọa và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam và Danh mục đỏ IUCN để yêu cầu phải có biện pháp bảo vệ (37 loài cá biển, 6 loài san hô, 5 loài da gai, 4 loài tôm rồng, 1 loài sam, 21 loài ốc, 6 loài hai mảnh vỏ, 3 loài mực). Kết quả nghiên cứu của FAO và một số tổ chức quốc tế khác trong những năm gần đây đều chỉ ra rằng khoảng hơn 80% lượng cá trên các vùng biển ven bờ và ngoài khơi của Việt Nam đã bị khai thác, trong đó có đến 25% lượng cá bị khai thác quá mức hoặc khai thác cạn kiệt; sản lượng đánh bắt giảm đáng kể; nhiều loài sinh vật biển khác đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.

– Thiên tai và các tác động của biến đổi khí hậu: Các hiện tượng thời tiết cực đoan, dị thường như nhiệt độ tăng, bão mạnh, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán và nước biển dâng cao,… đã và đang có dấu hiệu trở nên phổ biến hơn trong thời gian gần đây và nguyên nhân chính là do tác động của biến đổi khí hậu. Theo kịch bản BĐKH đến năm 2070, nhiệt độ ở các vùng ven biển Việt Nam có khả năng tăng thêm 1,5°C; vùng nội địa tăng 2°C. Biến đổi khí hậu, cụ thể là mực nước biển dâng cao, làm cho tình trạng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn và trở thành một trong những vấn đề nan giải tại một số địa phương: Đồng bằng sông Cửu Long với 1,77 triệu ha đất nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích, là vùng có diện tích đất nhiễm mặn lớn nhất cả nước. Nếu mực nước biển tiếp tục dâng cao lên 30cm theo kịch bản BĐKH năm 2050, mất đất và xâm nhập mặn sẽ càng gia tăng ở Đồng bằng sông Cửu Long và một số khu vực Đồng bằng sông Hồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia. Ngoài ra, mực nước biển dâng cao khiến diện tích rừng ngập mặn suy giảm và làm mất nơi cư trú của nhiều loài thủy sinh vật.

Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai trình Chính phủ về tình hình hạn hán, xâm nhập mặn khu vực Nam Trung Bộ, đến thời điểm báo cáo (ngày 15/4/2016) hạn hán nghiêm trọng đã xảy ra trên diện rộng ở Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (70% diện tích canh tác). Tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, xâm nhập mặn vào đất liền sâu nhất lên đến hơn 90km (chưa từng xuất hiện trong lịch sử quan trắc xâm nhập mặn). Đây được coi là đợt hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm trở lại đây cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Giai đoạn 2011 – 2015, thiên tai tuy xảy ra ít về số lượng nhưng cường độ tác động một số đợt lại ở mức cao kỷ lục. Nắng nóng gay gắt với nền nhiệt cao kéo dài kỷ lục xảy ra trên diện rộng từ Bắc Bộ đến các tỉnh Nam Trung Bộ. Mưa đặc biệt lớn tại Quảng Ninh; sạt lở đất, bờ sông, bờ biển xảy ra nhiều nơi; xâm nhập mặn xảy ra sớm hơn và lấn sâu vào đất liền; tình trạng cạn kiệt nguồn nước trên các dòng sông ngày càng phổ biến đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước mặt, môi trường đất và các vấn đề vệ sinh môi trường vùng ven biển.

2. Nguyên nhân chính

Nhìn một cách tổng thể giai đoạn 20 năm vừa qua có thể thấy kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất nước; khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển, làm giàu từ biển cùng những đóng góp to lớn từ khai thác tài nguyên biển vào quá trình phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, do các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, môi trường biển là một phạm vi rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp nên việc quản lý và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững còn nhiều bất cập. Ô nhiễm biển đã và đang là mối nguy, là cản trở lớn cho quá trình phát triển bền vững biển Việt Nam.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, nhưng sâu xa, đó chính là vấn đề nhận thức, ý nghĩa và trách nhiệm về bảo vệ môi trường (BVMT) biển của các ngành, các cấp, các doanh  nghiệp và người dân còn nhiều bất cập. Tư duy phát triển vẫn xem trọng các yếu tố kinh tế, tăng trưởng ngắn hạn hơn các yếu tố môi trường; coi trọng lợi ích trước mắt hơn các lợi ích và hệ quả lâu dài; các yêu cầu phát triển bền vững giữa kinh tế, xã hội và BVMT biển chưa được quán triệt đầy đủ, sâu sắc trong các quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển và các đề án, dự án cụ thể… dẫn đến việc thực thi không nghiêm, không hiệu quả. Việc nâng cao nhận thức, ý thức và trách nhiệm liên kết địa phương, vùng, liên ngành trong BVMT biển, trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa được quan tâm đầy đủ. Hơn nữa, hạn chế về nguồn lực cho việc thực hiện các kế hoạch cụ thể đã ban hành, việc huy động nguồn lực quốc tế, nguồn xã hội hoá… xét về tổng thể còn thiếu bài bản, chưa sử dụng hiệu quả. Việc lồng ghép vấn đề BVMT vào trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển còn nhiều khó khăn, lúng túng trong thực tế. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong ứng phó với vấn đề môi trường biển (sự cố, thảm hoạ môi trường) còn rất hạn chế; chưa tạo được mối liên hệ chặt chẽ, thuận tiện giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương hay giữa các địa phương. Bên cạnh đó, các quy định xử phạt của Việt Nam còn nhiều khác biệt và chồng chéo. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật về BVMT biển còn chưa được đề cập đến. Các mức độ vi phạm đã cố gắng chi tiết hoá nhưng chưa đầy đủ, mức độ xử phạt còn thấp và còn thiếu quy định về sử dụng các công cụ pháp lý – kinh tế như những biện pháp hữu hiệu để kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm biển.

3. Khuyến nghị một số giải pháp hạn chế ô nhiễm biển Việt Nam giai đoạn tới

Để thực sự đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW) đã nêu, việc ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển đã được xác định là một trong những nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới.

Về kiểm soát hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước biển:

– Đẩy mạnh hơn nữa xây dựng và áp dụng các công cụ kinh tế và chính sách trong quản lý môi trường biển, như: lệ phí ô nhiễm, lệ phí xả thải, phí sử dụng biển, phí sản phẩm, lệ phí hành chính thuế, cấp phép và thu hồi giấy phép khai thác, sử dụng biển, đảo, các quỹ môi trường biển và các khoản trợ cấp khác…

– Cần có sự liên kết phối hợp liên tỉnh, liên vùng và liên ngành chặt chẽ, hiệu quả trong việc kiểm soát các nguồn trực tiếp gây ô nhiễm, suy thoái môi trường vùng biển ven bờ, đặc biệt là nguồn thải từ các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở nuôi trồng, chế biến thuỷ sản, hoạt động thương mại, dịch vụ… dọc theo bờ biển, trên các đảo, cụm đảo; bảo đảm nước thải phải được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra biển.

– Xây dựng hệ thống quan trắc, đánh giá phạm vi, mức độ tác động của các nguồn gây ô nhiễm biển từ đất liền, đặc biệt là từ các lưu vực sông, từ các vùng canh tác nông nghiệp ven biển phải được tiến hành đồng thời với việc đẩy mạnh lập kế hoạch xử lý các cơ sở gây ô nhiễm vùng ven biển.

– Nâng cao hiệu lực, hiệu quả đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường, đặc biệt đối với các dự án phát triển kinh tế – xã hội vùng ven biển, trên biển, trên các đảo, cụm đảo; kiểm soát chặt chẽ các hoạt động lấn biển, nhận chìm; kiểm soát, ngăn chặn hoàn toàn việc đổ chất thải nguy hại xuống biển dưới mọi hình thức. Đánh giá môi trường chiến lược đảo đảm chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển biển, vùng ven biển, hải đảo phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường từ khâu lập, phê duyệt, triển khai thực hiện. Thực hiện nghiêm các quy định về đánh giá tác động môi trường.

– Trong giai đoạn tới, cần tập trung tăng cường năng lực ứng phó nhanh, hiệu quả với các sự cố môi trường ở các vùng cửa sông ven biển và trên biển; xã hội hoá, kêu gọi đầu tư từ khối doanh nghiệp trong hoạt động giám sát và ứng phó sự cố môi trường biển; thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ các yêu cầu về điều kiện, năng lực ứng phó sự cố của tàu, thuyền hoạt động trên biển hoặc đi qua các vùng biển Việt Nam.

Về bảo tồn đa dạng sinh học biển:

Nghị quyết số 36-NQ/TW về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, đã xác định đối với công tác bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung thực hiện các giải pháp lớn như: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học nói chung, bảo tồn đa dạng sinh học biển nói riêng, trong đó chú trọng đến các cơ chế toàn cầu và khu vực mà các điều ước và diễn đàn quốc tế đang quan tâm. Tiếp tục mở rộng diện tích, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển trên cơ sở quy hoạch không gian biển quốc gia, trong đó chú trọng việc bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, nhất là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển, bảo đảm tính toàn vẹn và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển… Đây là những định hướng giải pháp lớn, mang tính dài hạn. Để thực hiện thành công những định hướng trên, trong thời gian tới cần chú trọng đầu tư nguồn lực thực hiện đồng thời với các giải pháp tăng cường khả năng chống chịu của các hệ sinh thái biển trước tác động của biến đổi khí hậu, trong đó:

– Cần xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về phí và lệ phí trong việc các bên liên quan được hưởng các lợi ích từ khu bảo tồn biển, các quy định hỗ trợ người dân trong khu bảo tồn biển chuyển đổi sinh kế và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành trong việc xây dựng, vận hành khu bảo tồn biển…

– Quan tâm đầu tư hơn nữa cho nghiên cứu khoa học công nghệ biển nói chung, nghiên cứu các hệ sinh thái biển nói riêng. Qua đó làm rõ được chức năng sinh thái và năng suất sinh học của các hệ sinh thái biển, từng vùng biển Việt Nam. Đặc biệt là hệ sinh thái có tính nhạy cảm cao: đất ngập nước ven biển, rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển… Đây chính là tiền đề quan trọng cho việc quy hoạch không gian biển quốc gia cũng như việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển và vùng bờ của Việt Nam trong thời gian tới.

– Từng bước đánh giá tính đặc thù, tính đại diện của các hệ sinh thái biển, vùng bờ ven biển và khả năng chống chịu của chúng trước tác động của biến đổi khí hậu; rà soát, xem xét mức độ đáp ứng các tiêu chí thành lập vườn quốc gia, khu bảo tồn biển… lập quy hoạch thành lập mới, mở rộng các khu hiện có để từng bước thiết lập hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên trên biển.

– Thực hiện đánh giá và xác định các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng suy thoái nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt ở các vùng biển gần bờ;

– Đưa 16 khu bảo tồn vào hoạt động và mở rộng khu bảo tồn biển hiện có, đồng thời điều tra, khảo sát, thiết lập và đưa vào hoạt động một số khu bảo tồn biển mới.

Về nâng cao nhận thức và hợp tác giữa các bên liên quan:

– Tăng cường công tác tuyên truyền, tiến hành các chương trình giáo dục cộng đồng, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và từng bước đưa các môn học về đa dạng sinh học vào các trường học ở mọi cấp, cũng như triển khai xây dựng, nhân rộng các mô hình sinh kế bền vững từ đa dạng sinh học, với sự tham gia đầy đủ và có trách nhiệm của các doanh nghiệp, cộng đồng trong khai thác và bảo vệ môi trường biển.

– Cần chú trọng mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn biển, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn hỗ trợ quốc tế để thúc đẩy việc thành lập và quản lý các khu vực biển có giá trị quan trọng; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế trong các lĩnh vực: nâng cao năng lực và nhận thức, hướng dẫn người dân chuyển đổi sinh kế…

 ———————————————-

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 24-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
2. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.
3. Quốc hội (2012), Luật Biển Việt Nam.
4. Quốc hội (2015), Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo.
5. Quốc hội (2017), Luật Thủy sản.
6. Quyết định số 742/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020.
7. Quyết định số 1570/QĐ-TTg ngày 06 tháng 9 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
8. Quyết định số 2295/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược Quản lý tổng hợp đới bờ Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
9. Đặng Xuân Phương, Nguyễn Lê Tuấn (2014), Quản lý nhà nước tổng hợp thống nhất về biển và hải đảo; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
10.  Đặng Trung Tú, Quản lý và bảo vệ môi trường đới ven biển bằng công cụ chính sách. Môi trường Nông nghiệp – nông thôn và đa dạng sinh học ở miền Trung Việt Nam. NXB Đại học Huế, 2018.
11.  Đặng Trung Tú và nnk. Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. NXB Hồng Đức,.
12.  Tổng cục Môi trường (2016). Báo cáo Hiện trạng môi trường toàn quốc giai đoạn 2010 – 2015.
13.  Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, 2013. Báo cáo xây dựng Chiến lược Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Đề án tổng thể điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên – môi trường biển giai đoạn I.
14.  Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường. Báo cáo tóm tắt sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Theo ISPONRE.GOV.VN

Tags: , ,