Lý luận chung về an sinh xã hội

Bản chất sâu xa của an sinh xa hội là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.

Lý luận chung về an sinh xã hội

Khái niệm

Để hiểu rõ khái niệm an sinh xã hội, cần nhìn lại lịch sử phát triển của nhân loại.

Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở… Để thoả mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời, không phải khi nào con người cũng có thể lao động tạo ra được thu nhập. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất hạnh, rủi ro xảy ra làm cho con người bị giảm, mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác, chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau, tai nạn, mất người nuôi dưỡng, tuổi già, tử vong… Hơn nữa, cuộc sống của con người trên trái đất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường sống. Những điều kiện thiên nhiên và xã hội không thuận lợi đã làm cho một bộ phận dân cư cần phải có sự giúp đỡ nhất định để bảo đảm cuộc sống bình thường. Do đó, để tồn tại và phát triển, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục khó khăn.

Từ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã tự khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”; đồng thời, còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống an sinh xã hội đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn…); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.

Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều Bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, an sinh xã hội (lúc này là bảo hiểm xã hội) đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người, không phân biệt già – trẻ, nam – nữ, người khoẻ – người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp.

Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, an sinh xã hội đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu á, châu Phi và vùng Caribê. Ngoài bảo hiểm xã hội, các hình thức truyền thống về tương tế, cứu trợ xã hội cũng tiếp tục phát triển để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn như những người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người goá bụa và những người không may gặp rủi ro vì thiên tai, hoả hoạn… Các dịch vụ xã hội như dịch vụ y tế, dự phòng tai nạn, dự phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ đặc biệt cho người tàn tật, người già, bảo vệ trẻ em… được từng bước mở rộng ở các nước theo những điều kiện tổ chức, chính trị, kinh tế – xã hội, tài chính và quản lý khác nhau. Hệ thống an sinh xã hội được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử, trong đó bảo hiểm xã hội là trụ cột chính. Đạo luật đầu tiên về an sinh xã hội (Social Security) trên thế giới là Đạo luật năm 1935 ở Mỹ.

Đạo luật này quy định thực hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Thuật ngữ an sinh xã hội được chính thức sử dụng. Đến năm 1941, trong Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) chính thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế. An sinh xã hội đã được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Nội dung của an sinh xã hội đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Trong bản Tuyên ngôn có viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng an sinh xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người…”. Ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 102, được gọi là Công ước về an sinh xã hội (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp các chế độ về an sinh xã hội đã có trên toàn thế giới thành 9 bộ phận.

Tuy nhiên, cho đến nay, do tính chất phức tạp và đa dạng của an sinh xã hội nên vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau về vấn đề này. Khái niệm về an sinh xã hội cũng còn khá khác biệt giữa các quốc gia.

Theo tiếng Anh, an sinh xã hội thường được gọi là Social Security và khi dịch ra tiếng Việt, ngoài an sinh xã hội thì thuật ngữ này còn được dịch là bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội… với những ý nghĩa không hoàn toàn tương đồng nhau. Theo nghĩa chung nhất, Social Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già…Theo nghĩa này thì tầm “ bao” của Social Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa như trên cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên tai, dịch hoạ…Theo chúng tôi, an sinh xã hội mà chúng ta đang nói tới, nên được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm Social Security này. Bên cạnh khái niệm này, từ những cách tiếp cận khác nhau, một số nhà khoa học đưa ra những khái niệm rộng- hẹp khác nhau về an sinh xã hội, chẳng hạn:

– Theo H. Beveridge, nhà kinh tế học và xã hội học người Anh (1879-1963), an sinh xã hội là sự bảo đảm về việc làm khi người ta còn sức làm việc và bảo đảm một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa.

– Trong Đạo luật về an sinh xã hội của Mỹ, an sinh xã hội được hiểu khái quát hơn, đó là sự bảo đảm của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ.

Để dễ thống nhất, theo chúng tôi nên dùng khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng: an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.

Như vậy, về mặt bản chất, an sinh xã hội là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.

Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội

Theo khái niệm an sinh xã hội ở trên, có thể thấy:

– An sinh xã hội trước hết đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình.
– Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các biện pháp công cộng.
– Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội trước những biến cố, những “ rủi ro xã hội” dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập….

Như vậy, có thể nói, bản chất sâu xa của an sinh xã hội là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Có thể thấy rõ bản chất của an sinh xã hội từ những khía cạnh sau:

1. An sinh xã hội là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên hợp quốc thừa nhận.

Để thấy rõ bản chất của an sinh xã hội, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của an sinh xã hội là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên nhân khác nhau, như ốm đau, thương tật, già cả… gọi chung là những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, an sinh xã hội dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau.

an sinh xã hội, như đã nêu, có nội dung rất rộng lớn, nhưng tập trung vào ba vấn đề chủ yếu:

– Thứ nhất, là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự bảo đảm, đó là sự bảo hiểm xã hội. Có thể nói bảo hiểm xã hội là xương sống của hệ thống an sinh xã hội. Chỉ khi có một hệ thống bảo hiểm xã hội hoạt động có hiệu quả thì mới có thể có một nền an sinh xã hội vững mạnh. Bảo hiểm xã hội dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. Thông qua các trợ cấp bảo hiểm xã hội, người lao động có được một khoản thu nhập bù đắp hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong những trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.

– Thứ hai, là sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.

– Thứ ba, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…) cho những người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình… an sinh xã hội cũng khuyến khích, thậm chí bao quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch vụ đi lại…

Hệ thống an sinh xã hội hiện đại không chỉ là những cơ chế đơn giản nhằm thay thế thu nhập mà đã trở thành những véctơ hỗn hợp của cái gọi là “những chuyển giao xã hội”, tức là những công cụ, những biện pháp phân phối lại tiền bạc, của cải và các dịch vụ xã hội có lợi cho những nhóm người “yếu thế” hơn (hiểu một cách tương đối, biện chứng nhất – TG) trong cộng đồng xã hội.

Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của an sinh xã hội là nhằm che chắn, bảo vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.

2. An sinh xã hội thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp.

Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác nhau… là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội. Nhưng vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo đảm mọi mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo… an sinh xã hội tạo cho những người bất hạnh, những người kém may mắn hơn những người bình thường khác có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”, có cơ hội để phát triển, hoà nhập vào cộng đồng. An sinh xã hội kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả những người giàu và người nghèo; người may mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những chuẩn mực của Chân – Thiện – Mỹ. Nhờ đó, một mặt có thể chống thói ỷ lại vào xã hội; mặt khác, có thể chống lại được tư tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”… an sinh xã hội là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người không phân biệt chính kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.

3. An sinh xã hội thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái của cộng đồng.

Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh.

3.1. An sinh xã hội thực hiện một phần công bằng và tiến bộ xã hội.

Trên bình diện xã hội, an sinh xã hội là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là đối với những người nghèo khó, những nhóm dân cư “yếu thế” trong xã hội. Trên bình diện kinh tế, an sinh xã hội là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều ngang và dọc. Sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự phân phối lại giữa những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và người đã nghỉ việc, giữa người chưa có con và những người có gánh nặng gia đình. Một bên là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ an sinh xã hội hoặc đóng thế, còn bên kia là những người được hưởng trong các trường hợp với các điều kiện xác định. Thông thường, sự phân phối lại theo chiều ngang chỉ xảy ra trong nội bộ những nhóm người được quyền hưởng trợ cấp (một “tập hợp đóng” tương đối).

Sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức mua của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp, cho những nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo chiều dọc được thực hiện bằng nhiều kỹ thuật khác nhau: trực tiếp (thuế trực thu, kiểm soát giá cả, thu nhập và lợi nhuận…) hoặc gián tiếp (trợ cấp thực phẩm, cung cấp hiện vật hoặc các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ em…). Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện cho một “tập hợp mở” tương đối).

Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện phân phối lại theo chiều dọc còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện tài chính và tổ chức. Song cũng có thể có một số biện pháp để thực hiện một số chế độ cho những người có thu nhập thấp thông qua hệ thống đóng góp và hệ thống trợ cấp. Những người có thu nhập thấp thường được miễn giảm chế độ đóng góp, hoặc được người chủ sử dụng lao động (kể cả Nhà nước) đóng cho hoàn toàn. Hệ thống trợ cấp cũng lưu ý tới những người có thu nhập thấp (tỷ lệ trợ cấp cao hơn so với những người có thu nhập cao). Sự phân phối theo chiều ngang và theo chiều dọc đã tạo ra một lưới an sinh xã hội (social safety net hoặc social security net).

3.2. An sinh xã hội góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Đến nay người ta đã ý thức được rằng, sự phát triển của xã hội là một quá trình, trong đó các nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau. Sự phát triển của thế giới trong những năm gần đây đặt ra mục tiêu là bảo đảm những cải thiện nhất định cho hạnh phúc của mỗi người và đem lại những lợi ích cho mọi người; bảo đảm phân phối công bằng hơn về thu nhập và của cải, tiến tới công bằng xã hội; đạt được hiệu quả sản xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng và cải thiện về thu nhập giáo dục và y tế cộng đồng; giữ gìn và bảo vệ môi trường… Đáp ứng những nhu cầu tối cần thiết cho những người gặp khó khăn, bất hạnh là vấn đề được ưu tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những lưới đầu tiên của an sinh xã hội đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn cho họ. Sự phát triển sau này của những lưới khác tạo ra sự đa dạng trong an sinh xã hội, giải quyết được những nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong những trường hợp “rủi ro xã hội”. Tuy nhiên, phải thấy rằng, an sinh xã hội không loại trừ được sự nghèo túng mà chỉ có tác dụng góp phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội.

3.3. An sinh xã hội là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người.

Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều có những nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể tự lo liệu được cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành những người “yếu thế” trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm người “yếu thế”, những người gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng chính trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ chế hoặc tự phát, hoặc tự giác, thích ứng để giúp đỡ họ. Đây là cơ sở để hệ thống an sinh xã hội hình thành và phát triển. Tất nhiên, an sinh xã hội là một quá trình phát triển toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng phong phú, đa dạng.

Các bộ phận của an sinh xã hội

Về mặt cấu trúc, trên giác độ khái quát nhất, an sinh xã hội gồm những bộ phận cơ bản là:

– Bảo hiểm xã hội.
– Trợ giúp xã hội.
– Trợ cấp gia đình.
– Các quỹ tiết kiệm xã hội.
– Các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng…

Nội dung chi tiết của những bộ phận này của an sinh xã hội sẽ được chúng tôi giới thiệu trong các kỳ tới, trong bài này chỉ nêu rất khái quát.

Bảo hiểm xã hội

Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống an sinh xã hội. Có thể nói, không có bảo hiểm xã hội thì không thể có một nền an sinh xã hội vững mạnh. Bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển từ khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở châu Âu. Bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống cho những người công nhân công nghiệp và gia đình họ trước những rủi ro xã hội như ốm đau, tai nạn, mất việc làm…, làm giảm hoặc mất thu nhập. Tuy nhiên, cũng do tính lịch sử và phức tạp của vấn đề, khái niệm bảo hiểm xã hội đến nay cũng chưa được hiểu hoàn toàn thống nhất và gần đây có xu hướng hòa nhập giữa bảo hiểm xã hội với an sinh xã hội. Khi đề cập đến vấn đề chung nhất, người ta dùng khái niệm SOCIAL SECURITY và vẫn dịch là bảo hiểm xã hội, nhưng khi đi vào cụ thể từng chế độ thì bảo hiểm xã hội được hiểu theo nghĩa của từ SOCIAL INSURANCE. Tuy nhiên, sự hòa nhập này không có nghĩa là hai thuật ngữ này là một. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.

bảo hiểm xã hội có những điểm cơ bản là: bảo hiểm xã hội dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia phải đóng góp tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ bảo hiểm xã hội; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của Quỹ được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp bảo hiểm xã hội, không liên quan đến tài sản của người hưởng bảo hiểm xã hội; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu nhập trước khi hưởng bảo hiểm xã hội…

Trợ giúp xã hội

Đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình.

Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.

Trợ giúp xã hội có đặc điểm:

– Thuế được dùng để tài trợ cho các chương trình xã hội đa dạng để chi trả trợ cấp.
– Trợ cấp được chi trả khi các điều kiện theo quy định được đáp ứng.
– Thẩm tra tài sản (thu nhập, tài sản và vốn) thường dùng được xác định mức hưởng trợ cấp.

Trợ cấp gia đình

Trong hệ thống an sinh xã hội của nhiều nước quy định chế độ bảo hiểm xã hội dựa trên những nhu cầu đặc biệt và có những chi phí bổ sung gắn với gia đình.

Những phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng cơ cấu thuế để gắn với trách nhiệm gia đình. Người không có con phải nộp thuế cao hơn những người có con; người ít con phải nộp thuế nhiều hơn người đông con…

Các quỹ tiết kiệm xã hội

Ngoài bảo hiểm xã hội, trong hệ thống an sinh xã hội của nhiều nước có tổ chức các quỹ tiết kiệm dựa trên đóng góp cá nhân.

– Những đóng góp được tích tụ dùng để chi trả cho các thành viên khi sự cố xảy ra. Đóng góp và khoản sinh lời được chi trả một lần theo những quy định.
– Từng cá nhân nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời, không chia sẻ rủi ro cho người khác…

Các dịch vụ xã hội được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng

Ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước phát triển, trong hệ thống an sinh xã hội có nhiều dạng dịch vụ xã hội, được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng (ngân sách Nhà nước), bao gồm:

– Trợ cấp cơ bản cho mọi cư dân, hoặc tất cả những người đã từng làm việc trong một khoảng thời gian nhất định.
– Trợ cấp này không liên quan đến tài sản trước đó của người thụ hưởng; các chế độ được chi trả từ ngân sách Nhà nước.

Trách nhiệm từ chủ sử dụng lao động

– Thường chỉ là hệ thống tai nạn nghề nghiệp hoặc hệ thống đền bù cho người lao động.
– Chủ yếu liên quan đến tai nạn tại nơi làm việc và bệnh nghề nghiệp.
– Trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với chăm sóc y tế và bồi thường tuỳ theo mức độ tai nạn và bệnh nghề nghiệp.
– Có thể bao gồm một phần để chi trả chế độ cho người lao động trong thời gian ngừng việc (nằm trong chế độ bảo hiểm xã hội).

Dịch vụ xã hội khác

– Quy định thêm về an sinh xã hội dưới các hình thức khác.
– Khi không có hệ thống an sinh xã hội.
– Có thể được thực hiện bởi các tổ chức tự nguyện hoặc phi Chính phủ.
– Bao gồm các dịch vụ đối với người già, người tàn tật, trẻ em, phục hồi chức năng cho người bị tai nạn và tàn tật, các hoạt động phòng chống trong y tế (ví dụ tiêm phòng), kế hoạch hóa gia đình.

Chính sách an sinh xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam

Tiếp cận về chính sách xã hội

Từ khi con người sinh sống thành cộng đồng thì các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng được hình thành và phát triển ngày càng phức tạp và đa dạng. Trong quá trình phát sinh và phát triển các mối quan hệ xã hội này, làm nảy sinh các vấn đề xã hội cần được quan tâm giải quyết. Có những vấn đề phát sinh và phát triển theo từng chế độ chính trị xã hội, nhưng cũng có các vấn đề cần tồn tại ở các chế độ chính trị xã hội khác nhau. Có những vấn đề có tính chất riêng, có những vấn đề xã hội lại có tính toàn cầu, đòi hỏi toàn nhân loại phải giải quyết. Mỗi chế độ, thời đại đều phải tiếp tục giải quyết các vấn đề xã hội của chế độ trước, của thời đại trước để lại, đồng thời phải đối phó với những vấn đề mới nảy sinh trong hiện tại cũng như sẽ phát sinh trong tương lai.

Để giải quyết những vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ bản của một quốc gia là phải xây dựng những chính sách xã hội.

Chính sách xã hội là vấn đề rất rộng lớn, do vậy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, chẳng hạn:

– Theo nhà xã hội học Xô Viết V.Z.Rogovin: “Với tính cách là một bộ môn khoa học, chính sách xã hội là một lĩnh vực tri thức xã hội học, nghiên cứu hệ thống về các quá trình xã hội quyết định hoạt động sống của con người trong xã hội, xét theo khả năng tác động quản lý đến các quá trình đó. Có đầy đủ cơ sở để coi chính sách xã hội như là sự hòa quyện của khoa học và thực tiễn, như là sự phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận dụng thực tiễn những tri thức thu thập được nhằm mục đích quản lý các quá trình và các quan hệ ấy” (V.Z.Rogovin – Chính sách xã hội trong XHCN phát triển – Matxcova, 1980).

– Theo giáo sư Bùi Đình Thanh, để hiểu được chính sách xã hội phải trả lời được 4 câu hỏi: Ai đặt ra chính sách xã hội? Đặt ra chính sách xã hội để cho ai? Nội dung mục đích gì? Từ đó ông đưa ra khái niệm về chính sách xã hội như sau: “Chính sách xã hội là cụ thể hóa và thể chế hóa bằng pháp luật những đường lối, chủ trương, những biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm của những chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chính trị, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống, vật chất, văn hóa tinh thần của người dân” (Bùi Đình Thanh – Chính sách xã hội: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, 1993).

Chính sách xã hội luôn gắn với một chế độ chính trị – xã hội nhất định. Do đó, khái quát lại có thể hiểu chính sách xã hội như sau: Chính sách xã hội là sự thể chế hóa và cụ thể hóa những đường lối, chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội, dựa trên những tư tưởng, quan điểm của những chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chính trị, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm tác động trực tiếp vào con người và điểu chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, hướng tới mục tiêu cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân.

Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) Đảng ta coi chính sách xã hội là chính sách bao trùm lên mọi mặt cuộc sống của con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc…

Với cách tiếp cận như vậy có thể thấy chính sách xã hội thực chất là một hệ thống các chính sách. Mỗi chính sách xã hội có đối tượng, phạm vi, nội dung điều chỉnh nhất định và nhằm vào một mục tiêu nhất định. Chính sách xã hội phổ biến là loại chính sách có tác động, có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của các tầng lớp dân cư, đến toàn thể cộng đồng.

Chính sách an sinh xã hội trong hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam

Trong mô hình nêu trên, chính sách An sinh xã hội (an sinh xã hội) là loại chính sách xã hội phổ biến. Trong chính sách an sinh xã hội, như các phần trước đã nêu, về mặt cấu trúc gồm các bộ phận hợp thành (còn gọi là các trụ cột) là bảo hiểm xã hội cho người lao động; trợ giúp xã hội đối với mọi thành viên của xã hội khi họ gặp phải rủi ro; chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ xã hội bằng nguồn vốn của cộng đồng… Trong các bộ phận này của an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội là một bộ phận (hay trụ cột) lớn nhất, cơ bản nhất và ổn định nhất của hệ thống này. Chính sách bảo hiểm xã hội được coi là trụ cột lớn nhất của hệ thống an sinh xã hội quốc gia, bởi lẽ bảo hiểm xã hội có đối tượng rất lớn và toàn bộ người lao động – những người tạo ra của cải vật chất cơ bản cho xã hội. Tính cơ bản, tính ổn định của bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội thể hiện thông qua vấn đề tài chính để thực thi chính sách của hệ thống này. Nguồn tài chính của bảo hiểm xã hội được hình thành và sử dụng thông qua quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội là một quỹ tài chính tập trung, được hình thành và tồn tích dần do sự đóng góp theo luật định của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Quỹ này được bảo hộ và đầu tư tăng trưởng nhằm mục đích phục vụ tốt hơn cho các bên thụ hưởng bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội càng hoạt động tốt, quỹ bảo hiểm xã hội càng ngày càng phát triển, góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời sẽ tạo ra sự vững mạnh của nền an sinh xã hội quốc gia. Cùng với các bộ phận khác, bảo hiểm xã hội góp phần tích cực tạo ra “lưới an toàn xã hội” đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Điều này cho thấy chính sách bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn trong hệ thống an sinh xã hội nói riêng và hệ thống chính sách xã hội nói chung của quốc gia.

Quay trở lại với vấn đề an sinh xã hội trong kinh tế thị trường. Như đã nêu, nhu cầu về an sinh xã hội không chỉ được thực hiện trong kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường với những quy luật vốn có của mình, một mặt tạo cơ hội cho con người phát huy khả năng và tiềm năng của mình; mặt khác, con người có nguy cơ gặp phải rủi ro, bất lợi cao trong đời sống xã hội. Nói cách khác, kinh tế thị trường làm cho con người luôn có những bất an về mặt xã hội và vì vậy, nhu cầu về an sinh xã hội càng cao. Từ giác độ khác cho thấy, kinh tế thị trường tuân theo một số quy luật cơ bản, trong đó có quy luật giá trị và quy luật cung – cầu. Chỉ khi nền kinh tế thị trường phát triển, các quan hệ trong sản xuất kinh doanh, quan hệ lao động mới được thể hiện rõ. Người lao động làm việc trên cơ sở hợp đồng lao động, họ được trả công lao động trên cơ sở giá cả của thị trường và mối quan hệ lao động là mối quan hệ thỏa thuận. Việc cam kết bảo đảm cho người lao động về tiền lương khi làm việc và bảo đảm trả cho những rủi ro được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Đây là nền tảng của bảo hiểm xã hội hiện đại – một bộ phận quan trọng cả về tầm bao quát và tài chính của hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia. Bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường tồn tại, hoạt động và phát triển dựa trên mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa người sử dụng lao động (chủ) và người lao động (thợ) thông qua bên thứ ba – tổ chức sự nghiệp bảo hiểm xã hội. Về mặt tài chính, mối quan hệ này thể hiện ở sự đóng góp có tính chất bắt buộc (đóng phí bảo hiểm xã hội) của người sử dụng lao động và người lao động để hình thành và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội được dùng để chi trả cho các đối tượng thụ hưởng bảo hiểm xã hội và cho các chi phí quản lý của bộ máy bảo hiểm xã hội. Mối quan hệ này là mối quan hệ đặc trưng của bảo hiểm xã hội và chỉ tồn tại được trong cơ chế thị trường. Song song với bảo hiểm xã hội, trong hệ thống an sinh xã hội còn có các bộ phận khác do các quỹ công cộng hoặc cộng đồng đảm nhận như trợ giúp xã hội, trợ cấp gia đình… hoặc các dịch vụ khác được cung cấp bởi ngân sách Nhà nước (thông qua việc đóng thuế của mọi doanh nghiệp, mọi người dân) hoặc của cộng đồng. Mặc dù những quỹ này có tính xã hội nhiều hơn, nhưng chỉ có thể phát huy được trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, kinh tế thị trường mới có thể đa dạng được nguồn lực, mới phát huy được các tiềm năng của con người để thực hiện các công việc có tính xã hội này. Ngay cả với các đối tượng thụ hưởng cũng không chỉ thụ động hưởng cái xã hội mang đến, mà phải tích cực hơn để giảm thiểu những gánh nặng của xã hội.

Kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành ở Việt Nam, nhưng những nội dung của an sinh xã hội thì đã được thực hiện khá lâu. Do điều kiện kinh tế – xã hội, văn hóa lịch sử, mầm mống về an sinh xã hội đã có trong dân gian nước ta. Những câu thành ngữ “áo lành đùm áo rách”, “thương người như thể thương thân”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”…, đã thể hiện tính cộng đồng ở nước ta và nó đã góp phần điều chỉnh các hành vi trong xã hội về các hoạt động mang nội dung an sinh xã hội và dần được Nhà nước (kể từ thời phong kiến cho đến nay) xây dựng thành các chính sách về an sinh xã hội.

Trong xã hội Việt Nam cận đại và đương đại, những nội dung của an sinh xã hội cũng đã được thực hiện, đó là bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước (trước năm 1995); là cứu trợ xã hội đối với những người nghèo, người không may bị rủi ro trong cuộc sống; là ưu đãi xã hội đối với những người có công với đất nước… Một đặc trưng cơ bản của các hoạt động an sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ trước đổi mới là do Nhà nước thực hiện. Nhà nước đảm nhận cả hai vai, vừa là người ra chính sách, vừa là người thực hiện chính sách thông qua bộ máy của mình. Với cơ chế điều hành này mà nguồn lực tài chính chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước, chưa có sự tham gia đông đảo của người dân, của cả xã hội. Cơ chế điều hành theo kiểu hành chính mệnh lệnh này đã không cho phép người dân phát huy những nguồn lực của mình cho các hoạt động an sinh xã hội. Vì vậy, về phía xã hội thì lãng phí nguồn lực nhưng phân phối lại mang tính bình quân. Về phía người thụ hưởng thì trông chờ nhiều vào Nhà nước, không tự vươn lên thoát khỏi hoàn cảnh… Chỉ đến khi Đảng và Nhà nước thực hiện đổi mới, đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các hoạt động an sinh xã hội mới có sự thay đổi về cơ bản. Cũng như các nước có nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường ở Việt Nam đã làm cho đời sống kinh tế – xã hội năng động hơn, đa dạng hơn. Kinh tế thị trường mới tạo điều kiện hình thành các thành phần kinh tế. Người lao động có cơ hội và có điều kiện hơn phát huy được tiềm năng và khả năng của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các hoạt động xã hội. Mặt khác, trong kinh tế thị trường, nhất là trong giai đoạn mới phát triển, người dân nói chung và người lao động nói riêng dễ bị ảnh hưởng tiêu cực các mặt trái của kinh tế thị trường. Phá sản, thất nghiệp là những nguy cơ luôn tiềm ẩn; tệ nạn xã hội, phân hóa giàu nghèo là điều khó tránh khỏi… Những rủi ro này làm tăng nhu cầu về an sinh xã hội trong dân cư Việt Nam hiện đại. Đặc trưng cơ bản của an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là sự chuyển giao dần dần “công việc” từ Nhà nước sang cho xã hội, cho cộng đồng, nhất là các hoạt động trợ giúp xã hội, xóa đói giảm nghèo…

Nổi bật nhất trong các bộ phận an sinh xã hội của Việt Nam hiện đại đó là bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là trụ cột cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đối với hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có cả nước ta. Nếu như trước đây, đối tượng bảo hiểm xã hội của nước ta chỉ bó hẹp trong phạm vi công nhân, viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang thì chỉ đến khi hình thành các thành phần kinh tế, chúng ta mới có điều kiện mở rộng bảo hiểm xã hội cho người lao động trong các thành phần kinh tế này. Nếu như trước đây, tài chính bảo hiểm xã hội chủ yếu là do ngân sách Nhà nước đảm nhận, thì đến nay đã được chia sẻ bởi người lao động và người sử dụng lao động. Người lao động và người sử dụng lao động qua việc đóng bảo hiểm xã hội để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội đã thể hiện được nghĩa vụ cũng như quyền lợi của mình, khác hẳn với trước đây phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước. Người lao động trong các thành phần kinh tế có quyền được thụ hưởng bảo hiểm xã hội khi có nhu cầu trên cơ sở đóng góp của mình cho quỹ bảo hiểm xã hội. Người sử dụng lao động của các doanh nghiệp phải có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động mà mình thuê mướn. Quỹ bảo hiểm xã hội không hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước, được Nhà nước bảo hộ nên đã chủ động về nguồn chi bảo hiểm xã hội và đáp ứng ngày càng tốt hơn cho người thụ hưởng, hạn chế được tính bình quân trong các trợ cấp bảo hiểm xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước về bảo hiểm xã hội không những bị giảm đi như nhiều người hiểu, mà trái lại càng tăng lên. Chỉ có điều, nếu như trước đây, Nhà nước vừa ra chính sách vừa thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, thì nay chỉ thực hiện các chức năng quản lý: xây dựng chính sách, thanh tra việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Việc tách các chức năng quản lý Nhà nước và chức năng hoạt động sự nghiệp bảo hiểm xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã làm cho các hoạt động bảo hiểm xã hội hiệu quả hơn, phục vụ tốt hơn cho người lao động.

Bộ phận quan trọng khác trong hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đó là các hoạt động cứu trợ / trợ giúp xã hội. Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nên lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nơi và năm nào cũng xảy ra làm một bộ phận dân cư lâm vào tình cảnh túng quẫn. Mặt khác, nghèo đói, hậu quả của chiến tranh và những ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường như mại dâm, ma túy và các tệ nạn xã hội khác… đã hình thành một nhóm dân cư cần được cứu trợ / trợ giúp xã hội. Nếu như việc cứu trợ / trợ giúp này trước đây chủ yếu do Nhà nước thực hiện với những “định mức” cả về tiền và hiện vật rất mang tính bình quân, thì trong kinh tế thị trường, các hoạt động này đã được “xã hội hóa”, đa dạng hơn. Nguồn lực cho cứu trợ / trợ giúp xã hội đã được đa dạng hóa từ Nhà nước, người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và nguồn lực quốc tế. Điều cơ bản nhất, đó là Nhà nước đã tạo ra “hành lang pháp lý” và tạo điều kiện hết sức thuận lợi để phát huy các nguồn lực này nhằm hỗ trợ cho những người không may bị thiệt thòi có cơ hội vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Nhà nước vẫn giữ vai trò rất lớn trong các hoạt động cứu trợ / trợ giúp xã hội này thông qua việc xây dựng cơ chế chính sách và định hướng hoạt động.

Nói tóm lại, những đặc trưng cơ bản nhất thể hiện rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và an sinh xã hội ở Việt Nam là:

– Kinh tế thị trường làm cho các hoạt động kinh tế – xã hội năng động hơn, người dân được phát huy khả năng của mình; đồng thời kinh tế thị trường tạo ra những “rủi ro xã hội” và luôn tiềm ẩn những “rủi ro xã hội” mới làm tăng nhu cầu về an sinh xã hội.
– Kinh tế thị trường làm cho đời sống các tầng lớp dân cư thay đổi, nhìn chung mức sống dân cư được nâng lên, nhưng sự phân hóa giàu nghèo tăng lên. Điều này làm cho nhu cầu về an sinh xã hội vừa được nâng lên và vừa đa dạng hơn.
– Đã có sự chuyển giao dần từ Nhà nước sang cộng đồng các hoạt động an sinh xã hội.
– Nhà nước giữ vai trò hoạch định chính sách, tạo ra cơ chế phát huy tối đa tiềm năng và khả năng của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng và toàn xã hội trong các hoạt động an sinh xã hội. Đồng thời, Nhà nước có điều kiện thực hiện chức năng định hướng và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động an sinh xã hội.
– Kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, tạo ra tiền đề, cơ sở vững chắc cho các hoạt động an sinh xã hội.
– Từng người dân, từng cộng đồng có điều kiện và cơ hội phát huy khả năng của mình trong cuộc sống, có điều kiện hơn để tham gia vào hệ thống an sinh xã hội (tham gia bảo hiểm xã hội), đồng thời có điều kiện về vật chất để tham gia vào các hoạt động an sinh xã hội (đóng góp cho các hoạt động cứu trợ / trợ giúp xã hội…).
– Nguồn lực cho các hoạt động an sinh xã hội được đa dạng hơn, phong phú hơn.
– Người thụ hưởng chính sách an sinh xã hội được đảm bảo hơn, nhưng đồng thời họ có ý thức hơn đối với bản thân (đối với nhóm đối tượng của cứu trợ / trợ giúp xã hội), tích cực vươn lên để hòa nhập với cộng đồng.

Khác với nhiều nước có nền kinh tế thị trường, an sinh xã hội ở Việt Nam được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Hơn nữa, an sinh xã hội ở Việt Nam còn được thực hiện trong một môi trường văn hóa truyền thống. Vì vậy, an sinh xã hội đã kết hợp hài hòa những tinh hoa của nhân loại và truyền thống của dân tộc. Điều này đã đem lại cho nền an sinh xã hội ở nước ta một sắc thái riêng mà không phải nước nào cũng có được. Tuy nhiên, sự kết hợp này không phải ở đâu và lúc nào cũng hài hòa, vì vậy vẫn còn hiện tượng những hoạt động của cộng đồng về an sinh xã hội thì lại có xu hướng hành chính hóa, Nhà nước hóa (nhất là trong các lĩnh vực cứu trợ / trợ giúp xã hội hoặc các hoạt động nhân đạo từ thiện); ngược lại, có những hoạt động thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước thì lại đang bị xã hội hóa một cách thái quá, nên dễ bị lạm dụng, cần sớm được điều chỉnh cho phù hợp.

Theo TẠP CHÍ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Tags: