Iran: Từ đồng minh thân cận nhất đến kẻ thù không đội trời chung của Mỹ

Iran từng là quốc gia quân chủ chuyên chế thân Mỹ, giống như các quốc gia Trung Đông ngày nay, nhưng những bất ổn xã hội sâu sắc đã khởi nguồn cuộc Cách mạng Hồi giáo, dẫn đến hơn 4 thập kỷ đối đầu Mỹ-Iran.

Iran: Từ đồng minh thân cận nhất đến kẻ thù không đội trời chung của Mỹ

Iran từng là mái nhà của một trong những nền văn minh cổ xưa nhất trên Trái đất, với lịch sử có khu dân cư từ những năm 7000 trước Công nguyên. Đế chế Iran bước vào giai đoạn cực thịnh trong thời đại Đồ sắt, với sự xuất hiện của triều đại Achaemenid.

Đế chế Achaemenid là nền văn minh duy nhất trong lịch sử chiếm tới 40% dân số thế giới. Vào thời điểm năm 480 trước Công nguyên, Đế chế Achaemenid kiểm soát vùng đất có 49,4 triệu người sinh sống, so với tổng số dân trên thế giới khi đó là 112,4 triệu người. Đó cũng là thời điểm người Ba Tư thể hiện sự thống trị trên quy mô toàn cầu.

Sau này, các đế chế Ba Tư dần suy yếu, chịu ảnh hưởng văn hóa Hồi giáo. Tính đến năm 2017, Iran có 82 triệu dân, trong đó số người theo Hồi giáo chiếm tới 99,4%, chủ yếu là Hồi giáo dòng Shia theo chủ nghĩa ôn hòa.

Bước vào thời kỳ hiện đại, Iran giống như các quốc gia Trung Đông giàu dầu mỏ khác, trở thành tâm điểm của cuộc cạnh tranh quyền lực và tài nguyên giữa các cường quốc như Anh, Pháp, Đức, Mỹ và Liên Xô.

Từng là đồng minh thân cận bậc nhất của Mỹ ở Trung Đông

Việc phát hiện mỏ khí đốt khổng lồ năm 1908 ở Khuzestan đã thu hút mối quan tâm đặc biệt của đế quốc Anh với khu vực này. Trong giai đoạn Thế chiến 1, Iran trở thành nơi Anh, Nga và đế chế Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) cạnh tranh quyền lực.

Đến năm 1919, vì những vấn đề trong nước, Nga rút lui, Anh độc chiếm Iran và muốn lập chính quyền bảo hộ xứ Ba Tư, nhưng không thành công.

Mâu thuẫn giữa đế quốc Anh và người Iran càng sâu sắc vì vấn đề dầu khí. Công ty Dầu Anh-Iran (AIOC) giữ độc quyền khai thác dầu tại Iran, đem phần lớn lượng dầu khai thác được về Anh, trong khi người Iran chỉ nhận được phần nhỏ.

Sau Thế chiến 2, tư tưởng dân tộc chủ nghĩa phát triển mạnh tại khu vực Trung Đông mà Iran không phải là ngoại lệ. Bất mãn với tỷ lệ chia sẻ lợi nhuận dầu mỏ, người Iran bắt đầu hình thành tư tưởng quốc hữu hóa AIOC.

Năm 1951, Mohammed Mosaddeq – nhân vật theo chủ nghĩa dân tộc được bầu làm Thủ tướng Iran. Chính phủ Mosaddeq bắt đầu có những động thái kiểm soát quyền lực của vua Mohammad Reza Pahlavi.

Pahlavi là vị vua thân phương Tây, đưa người Iran đến với những tiến bộ văn minh của phương Tây thời kỳ đó. Nhưng đối với một quốc gia Hồi giáo như Iran, việc bị phương Tây hóa và đế quốc thâu tóm hết tài nguyên là điều không thể chấp nhận được.

Năm 1953, quân đội Iran, với sự hậu thuẫn và viện trợ tài chính của Mỹ, đã lật đổ chính phủ của Thủ tướng Mohammed Mosaddeq, lấy lại quyền lực cho vua Pahlavi. Đây cũng là lần đầu tiên Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) thực hiện thành công một nhiệm vụ thay đổi chế độ ở quốc gia nước ngoài.

Đáp lại sự giúp đỡ của Mỹ, vua Iran Pahlavi đã giao hơn 40% số mỏ dầu của Iran cho các công ty Mỹ. Iran kể từ đây xích lại gần Mỹ hơn bao giờ hết, thậm chí trở thành một trong những đồng minh thân cận nhất của Mỹ ở Trung Đông, theo BBC.

Tiềm năng phát triển Iran khi đó là rất lớn bởi trữ lượng dầu mỏ khổng lồ. Dưới thời vua Pahlavi, bộ mặt đất nước Iran có những thay đổi tích cực, có phần giống các nước phương Tây.

Iran thời kỳ này xích lại gần Mỹ đến mức lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev còn ra lệnh ám sát vua Iran, vì không ký hiệp ước không gây chiến với Liên Xô. Đổi lại, Mỹ đã không ngừng viện trợ kinh tế và quân sự vào Iran suốt những năm 1950, 1960 và 1970. Xương sống của lực lượng không quân Iran suốt một thời gian là các máy bay và khí tài quân sự Mỹ.

Nhưng sự thiếu giáo dục của lực lượng lao động và khoảng cách quá lớn với cơ sở hạ tầng công nghiệp và kỹ thuật là rào cản khiến vua Pahlavi không thể biến Iran thành một quốc gia phương Tây hóa đúng nghĩa. Việc vua Pahlavi thay đổi bộ luật cho phụ nữ quyền bình đẳng trong vấn đề hôn nhân là một trong những giọt nước tràn ly khiến cộng đồng Hồi giáo Iran phẫn nộ.

Những năm 1960, lãnh tụ Hồi giáo Iran Ayatollah Khomeini nổi tiếng với tư cách là một người khôi phục nền Hồi giáo dòng Shia ở Iran. Năm 1971, vua Pahlavi không biết mối đe dọa ngày càng lớn trong nội bộ xã hội Iran, vẫn tổ chức lễ kỷ niệm 2500 năm thành lập Đế quốc Ba Tư một cách linh đình và xa hoa, thậm chí người bản địa Hồi giáo không được tham gia.

“Trong khi những người ngoại quốc đang chè chén với thứ thức thuốc bị cấm trong đạo Hồi thì người Iran không chỉ không được tham sự lễ hội, mà một số còn bị chết đói”, những giáo sĩ Iran bày tỏ sự bất bình, khi ở nhiều nơi trên đất nước xảy ra hạn hán.

Sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, thành thị và nông thôn ở Iran càng khoét sâu vào những mâu thuẫn xã hội sâu sắc, mà đến đỉnh điểm là cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979.

Ngày 16/1/1979, vua Pahlavi cùng gia đình buộc phải lên máy bay rời Iran để đến Ai Cập sống lưu vong, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế ở Iran.

Đến kẻ thù “không đội trời chung”

Hai tuần sau, giáo chủ Ayatollah Khomeni từ Pháp trở về Iran trong sự chào đón của hàng triệu người ủng hộ. Nhờ giành được sự ủng hộ của quân đội và đa số, giáo chủ Khomeni chính thức thành lập nước Cộng hoà Hồi giáo.

Việc Iran thay đổi chính quyền thân Mỹ một cách chóng vánh khiến Washington không kịp trở tay, nhưng cũng không đối đầu ngay lập tức.

Quan hệ căng thẳng Mỹ-Iran bắt đầu vào tháng 11/1979, khi các sinh viên Iran bắt cóc 63 con tin Mỹ tại Đại sứ quán Mỹ ở Tehran, với cáo buộc cho rằng đây là “hang ổ của gián điệp”.

Trong nhiều tháng, Mỹ sử dụng nhiều biện pháp đấu tranh ngoại giao nhằm yêu cầu Tehran trả tự do cho công dân nhưng bất thành. Tháng 4/1980, Tổng thống Mỹ khi đó là Jimmy Carter phê chuẩn quyết định đưa biệt kích Delta vào thủ đô Iran, nhằm giải cứu con tin nhưng không thành công.

Sau thất bại trên, chính quyền Carter đã áp đặt cùng lúc hàng loạt biện pháp cấm vận, trừng phạt khắt khe chống Iran. Đến năm 1981, Iran mới trả tự do cho các công dân và nhân viên Đại sứ quán Mỹ. Quan hệ ngoại giao Mỹ-Iran bước vào giai đoạn đóng băng.

Về phần Iran, nước này liên lạc ngoại giao với Mỹ thông qua Pakistan, còn Thụy Sĩ đóng vai trò là quốc gia thay mặt của Mỹ ở Iran.

Trải qua hơn 4 thập kỷ chịu cấm vận của Mỹ, nền kinh tế và quân sự Iran gặp không ít khó khăn. Quân đội Iran cho đến nay vẫn phải sử dụng các máy bay F-4 và F-14 có từ thời thân Mỹ, trong khi các máy bay tự sản xuất vẫn có dấu ấn của công nghệ Mỹ.

Tháng 9/1980, chiến tranh Iran – Iraq nổ ra, lãnh đạo Iraq Saddam Hussein, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, muốn lợi dụng tình hình khó khăn của Iran để đưa Iraq trở thành thế lực mới ở Trung Đông.

Cuộc chiến kết thúc với kết quả bất phân thắng bại, nhưng tạo cớ cho hải quân Mỹ tăng cường hiện diện ở khu vực. Năm 1988, với lý do tàu chiến trúng phải mìn Iran ở eo biển Hormuz, quân đội Mỹ đã phát động chiến dịch quân sự, phá hủy hai giàn khoan dầu của Iran, đánh chìm 6 tàu chiến, chiếm một nửa hạm đội tác chiến của hải quân Iran khi đó.

Chỉ vài tháng sau, không rõ vô tình hay cố ý mà tàu chiến Mỹ đã phóng tên lửa bắn rơi máy bay chở khách A-300 của Iran ở eo biển Hormuz, khiến toàn bộ 290 người thiệt mạng. Mỹ thừa nhận sai lầm nhưng đổ lỗi cho Iran vì “cho máy bay thương mại hoạt động ở vùng chiến sự”.

Năm 2006, Iran bắt đầu phát triển công nghệ hạt nhân, làm giàu uranium phục vụ cả mục đích quân sự và phi quân sự. Iran cho rằng vũ khí hạt nhân sẽ giúp quốc gia này bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trước sự gây hấn của Mỹ.

Dưới thời Tổng thống Mỹ Barack Obama, quan hệ Mỹ-Iran có phần khởi sắc với thỏa thuận hạt nhân, cho phép Iran phát triển hạt nhân ở mức giới hạn, không đủ để chế tạo vũ khí. Mỹ cũng dỡ bỏ cấm vận kinh tế với Iran.

Tháng 5/2018, sau một năm cầm quyền, Tổng thống Mỹ Donald Trump đơn phương rút Mỹ khỏi hiệp ước thỏa thuận hạt nhân Iran. Ông Trump rất không hài lòng khi Iran kiếm được nhiều tiền hơn từ dầu mỏ, và ngay sau đó là các lực lượng Iran xuất hiện ở Syria và Iraq, hậu thuẫn các lực lượng quân sự chống Mỹ trên khắp Trung Đông.

Căng thẳng Mỹ-Iran leo thang lên một tầm cao mới vào tháng 4/2019, khi Mỹ thông qua điều luật coi Vệ binh Cách mạng Iran (IRGC) là khủng bố. Điều luật này cho phép Mỹ dọn đường mở chiến dịch quân sự chống Iran. Vài tháng sau, Iran bắn rơi máy bay không người lái Mỹ với cáo buộc máy bay này xâm phạm không phận.

Mỹ, Anh và Iran kể từ đó liên tục có hành động đáp trả lẫn nhau. Giới quan sát nhận định, một cuộc chiến tranh Mỹ và các đồng minh với Iran sẽ rất tàn khốc, gây thương vong lớn, thậm chí có thể khơi mào Thế chiến 3. Có thể nói, Iran hiện tại là cái “gai trong mắt” lớn nhất của Mỹ, hơn cả những vấn đề căng thẳng thương mại với Trung Quốc hay Triều Tiên.

Theo DÂN VIỆT

Tags: ,