Hiểu đúng về ‘chữ’ và ‘từ’ trong tiếng Việt

Một ngôn ngữ bao giờ cũng có hai phần, tiếng nói và chữ viết. Âm thanh là nền tảng của một ngôn ngữ chứ không phải chữ viết. Viết là mã hóa tiếng nói thành chữ, để truyền cho những người không nghe được trực tiếp. Tiếng nói (âm) thì tiếng Việt vay mượn khá nhiều âm của tiếng Hán (trên 60%), nhưng chữ viết thì chúng ta không còn viết như chữ Hán nữa.

Hiểu đúng về ‘chữ’ và ‘từ’ trong tiếng Việt

Từ giữa thế kỷ 17, Việt Nam đã bắt đầu dùng chữ Quốc Ngữ (hệ chữ La-tinh) để viết do các giáo sĩ đạo Cơ Đốc (Kitô giáo) sáng tạo ra. Theo sự sáng tạo này, thì từ do các chữ cái (và năm dấu câu) ghép lại mà thành. Còn người Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc khi viết vẫn dùng chữ tượng hình. Dùng chữ tượng hình, thì một “chữ” của họ tương đương với một “từ” của ta.

1. Chữ

Như trên đã đề cập, một “chữ” tiếng Trung Quốc tương đương với một “từ” tiếng Việt. Ví dụ: chữ trong tiếng Trung – là từ “Tử” trong tiếng Việt. Chữ này nghĩa là “con” hoặc “nhà thầy” – người đàn ông đức hạnh, có học vấn. Còn khi nói “chữ ” trong tiếng Việt là nói đến chữ cái: a, ă, â, b, c… Từ “Tử” do hai chữ “T”, “ư” và dấu hỏi ghép lại mà thành.

Đơn vị âm nhỏ nhất của tiếng Việt là chữ cái chứ không phải từ. Mặt khác, tiếng Việt (âm) lại vay mượn nhiều từ tiếng Hán (lưu ý tiếng nói khác chữ viết), nên có sự khác nhau sau đây:

Vì dùng chữ quốc ngữ nên tiếng Việt phát âm thế nào, viết thế ấy. Ví dụ: từ “hồ” – phát âm là “hồ” – “hồ” trong “hồ dán”, “hồ nước” và “hồ lô” đều viết là “hồ” – do hai chữ “h”, “ô” và dấu huyền ghép lại mà thành.

Chữ tiếng Hán là chữ tượng hình. Tiếng Hán phát âm như nhau (đồng âm), nhưng viết khác nhau. Ta phải dựa vào cách viết mới dịch được nghĩa. Như ví dụ trên, trong tiếng Hán, ba chữ “hồ” trong “hồ dán”, “hồ nước” và “hồ lô” viết khác nhau, lần lượt là (), () và ().

Tuy vậy, tiếng Hán có nhiều “chữ” có rất nhiều nghĩa, như chữ (Tử) ở ví dụ trên có đến hơn mười nghĩa: con trai, con cháu, giống cây, nhà thầy… Cũng đọc là “tử” nhưng nếu viết (tiếng Hán) lại có nghĩa là chết, viết là thì có nghĩa là yếu, kém…

2. Từ

Từ trong tiếng Việt có từ đơn và từ ghép. Nhiều người vẫn nhầm từ ghép là hai, ba từ. Từ dài nhất trong tiếng Việt là từ “nghiêng” – có bảy chữ cái, từ ngắn nhất chỉ có một chữ cái đó là các từ như: o – cô gái, u – mẹ, y – hắn…

Ví dụ về từ ghép như từ “máy tính bảng” là một từ một ghép. Từ ghép không chỉ là ghép đôi, mà có thể còn là ghép ba, ghép bốn… Ví dụ: “máy tính xách tay” là từ ghép bốn. Nhưng đây cũng chỉ là một từ mà thôi.

“Máy tính bảng” là từ chỉ cái máy tính bảng ngoài thực tế. Khi một người chưa biết máy tính bảng là gì. Họ chỉ vào nó và hỏi: “Đây là cái gì?”. Ta sẽ trả lời, nó là cái “máy tính bảng”. Từ đó, khi nói “máy tính bảng” người ta sẽ hiểu, vì đã hình dung được nó trong đầu.

Từ cũng có từ gốc và từ phái sinh. Ví dụ: “cái bát” là từ gốc, “cái bát tô”, “cái bát con” là các từ phái sinh – từ từ “cái bát”; hay “máy tính” là từ gốc, “máy tính bảng”, “máy tính xách tay”, “máy tính để bàn” là các từ phái sinh – từ từ “máy tính”.

Thông thường, nghĩa của một từ sẽ có hai phần là nội hàm và ngoại diên. Tuy nhiên, với những từ gốc, thì nghĩa chỉ có nội hàm, không có ngoại diện. Với những từ phái sinh, thì nghĩa sẽ có đầy đủ cả hai phần nội hàm và ngoại diên.

Ví dụ: “Máy tính bảng” là từ phái sinh của từ “máy tính”. “Máy tính bảng là cái máy tính được làm gọn lại như cái bảng học sinh, để dễ mang đi và sử dụng. Người dùng máy tính bảng tương tác với nó bằng cách nhấn vào màn hình cảm ứng”. Đó là định nghĩa về cái máy tính bảng.

Xin nhớ cho là, bên trên là “định nghĩa” về máy tính bảng, chứ không phải là “khái niệm” về nó. Vì máy tính bảng là một vật hữu hình, cụ thể, ta có thể nhìn thấy, cầm lấy nên ta có thể định nghĩa – cho từ mô tả nó – được. Còn khái niệm là khi ta muốn xác định nghĩa cho những từ chỉ những thứ vô hình, trừu tượng, khó hình dung…

Cũng xin nhớ cho là từ “máy tính bảng” viết trên giấy và âm “máy tính bảng” ta nói ra miệng là hai đối tượng hoàn toàn khác nhau. Một đằng là từ (ghép gồm ba từ đơn) ta viết trên giấy, còn một đằng là ba tiếng (âm thanh) ta nói (phát âm) ra miệng.

Trong từ ghép “máy tính bảng” đó, thì phần “là một chiếc máy tính” là nội hàm. Tức nó là một chiếc máy tính: một loại máy dùng để lưu trữ, xử lý và truyền tải thông tin. Người ta dùng nó để học tập, làm việc và giải trí. Còn lại, phần từ đơn “bảng” là ngoại diên.

Trong định nghĩa “máy tính bảng”, khi sử dụng nội hàm của từ “máy tính”, thì người ta không cần phải viết lại đoạn: “là một loại máy dùng để lưu trữ, xử lý và truyền tải thông tin” nữa. Còn ngoại diên “bảng” được hiểu là: “được làm gọn lại như cái bảng học sinh, để dễ mang đi và sử dụng”. Đây là đặc thù riêng, mở rộng thêm của dòng máy tính bảng.

Và cuối cùng, “máy tính bảng” là một từ, chứ không phải là một khái niệm như nhiều người vẫn tưởng. Khái niệm và định nghĩa là hai động tác làm rõ nghĩa cho từ ngữ.

3. Ngữ

Ngữ có hai loại là tục ngữ và thành ngữ.

1. Tục ngữ là những cụm từ đúc kết kinh nghiệm, tri thức trong dân gian từ đời này sang đời khác. Đó là những câu nói ngắn gọn, súc tích nên dễ nhớ, dễ truyền. Tục ở đây không phải là nói tục, mà là nói thật, mộc mạc, dân dã…

Đó là các câu như: nước đổ đầu vịt, nước đổ lá khoai, đàn gảy tai trâu, dĩ hòa vi quý, kiến giả nhất phận… Là sự đúc kết các kinh nghiệm.

2. Thành ngữ là những cụm từ đã hình thành được một tứ văn, và được cả cộng đồng chấp nhận. Thành ngữ thường ngắn gọn, súc tích và được dùng trong giao tiếp. Đôi khi ý muốn nói của thành ngữ lại khác xa với nghĩa của những từ cấu thành lên nó.

Thành ngữ không có tính giáo dục. Có thể liệt kê ra một số thành ngữ như: vô hình trung, cao chạy xa bay, vô tiền khoáng hậu, vô thưởng vô phạt, ăn nên làm ra… Thành ngữ chỉ dùng để diễn đạt, chứ không có đúc rút kinh nghiệm bên trong.

Sau đây là ví dụ về một tình huống có thành ngữ: Một anh chàng thành thị về ra mắt bố mẹ người yêu ở quê. Thấy vườn đẹp quá, anh ta trầm trồ khen: “Vườn nhà mình đẹp quá bác ạ, rau cứ xanh mơn mởn!” Bố cô gái trả lời: “Còn phải bảo!”

Nếu là một người nước ngoài, hoặc là người khác vùng, thì anh chàng kia sẽ không hiểu bố bạn gái mình nói gì, anh ta sẽ không hiểu câu đáp của ông để mà nói chuyện tiếp.

Ngữ khác nhau ở các vùng miền và thay đổi theo thời gian. Hàng ngày, trong cuộc sống, ở khắp mọi nơi, chúng ta vẫn sáng tạo ra ngữ mới như: ông chú Viettel, vẫn chưa bị bắt, đúng quy trình, động cơ là gì…

Theo THẢO LUẬN 247

Tags: