Biên niên sử cuộc chiến 25 năm giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn (1777 – 1802)

Chúng ta nhìn lại bối cảnh chung của cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, trong 25 năm, từ 1777 đến 1802, khi Gia Long thống nhất đất nước.

Biên niên sử cuộc chiến 25 năm giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn (1777 – 1802)

>Bài này tóm lược bối cảnh chiến tranh qua lăng kính của Đại Nam Thực Lục và Đại Nam Liệt Truyện. Tuy gọi Tây Sơn là ngụy, là giặc, nhưng sử gia triều Nguyễn ghi chép rất kỹ về giai đoạn này.Kế tiếp, chúng tôi sẽ giới thiệu tài liệu của những người Tây Phương sống cùng thời, xem họ viết như thế nào; để đối chiếu với những điều do các nhà nghiên cứu, các sử gia thuộc địa viết, xem sự khác biệt ra sao.

Tổng hợp cả ba loại tài liệu trên, chúng ta sẽ có thể tìm ra phần nào sự thực lịch sử.

I. Tóm tắt giai đoạn lịch sử 1777- 1802

Chúa Nguyễn chạy vào Gia Định

Chúa Nguyễn, ở trong Nam, kể từ Nguyễn Hoàng (1600-1613) đến Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) là đời thứ tám. Võ Vương mất, di chúc lập con thứ hai là Nguyễn Phước Luân, cha của Nguyễn Phước Ánh lên ngôi. [Hoàng tử cả là Nguyễn Phước Chương mất sớm, hoàng tử thứ chín là Nguyễn Phước Hiệu được chọn làm thế tử, cũng mất; con là hoàng tôn Nguyễn Phước Dương còn nhỏ].

Trương Phúc Loan chuyên quyền, bắt Nguyễn Phước Luân giam vào ngục, tha về thì chết. Phước Luân được gọi là Hưng tổ.

Nguyễn Ánh mới 3 tuổi (tên húy là Chủng, Noãn và Ánh, sinh ngày 8/2/1762). Chủng là tên lúc nhỏ, lớn dùng tên Ánh.

Trương Phúc Loan lập con thứ 16 của Võ Vương là Nguyễn Phước Thuần, sinh năm Giáp Tuất (1754), lên ngôi lúc 11 tuổi, tức Duệ Tông Hiếu Định Hoàng Đế còn gọi là Định Vương.

Tháng 3/1773 (tháng 2 Quý Tỵ), Tây Sơn khởi nghiệp. Chiếm Qui Nhơn, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Thuận.

Tháng 4-5/1774 (tháng 4 Giáp Ngọ), Tống Phước Hiệp, tướng nhà Nguyễn, chiếm lại được Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang.

Ở Bắc, chúa Trịnh Sâm (1767-1782) thấy trong Nam có biến, bèn quyết định đánh.

Tháng 6-7/1774 (tháng 5 ÂL.) quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng cùng Bùi Thế Đạt, Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Thể tiến vào Nam.

Tháng 11/1774 (tháng 10 ÂL.) quân Trịnh vượt sông Gianh.

Tháng 12/1774 (tháng 11 ÂL.) Trịnh Sâm đem thủy quân vào Nghệ An, đóng ở Hà Trung [Theo Đại Nam Nhất thống chí, phủ Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hoá, tập 2, t. 226]

Cuối tháng 1/1775 (tháng 12 Giáp Ngọ) Hoàng Ngũ Phúc chiếm được Phú Xuân [Huế].

Tháng 2/1775 (tháng 1/Ất Mùi) Định Vương chạy vào Quảng Nam, lập cháu là Nguyễn Phước Dương làm Thế tử (Đông cung) sai ở lại trấn thủ Quảng Nam, rồi cùng cháu là Nguyễn Phước Ánh (13 tuổi) con thứ ba của Hưng tổ và cung quyến chạy vào Gia Định.

Chữ Gia Định, thời ấy, vừa chỉ Sài Gòn, vừa chỉ cả miền Nam.

Ánh, dù nhỏ tuổi, được dự bàn việc quân, với chức Chưởng sử, coi quân Tả dực. (Thực Lục, I, t. 204). Tống Phước Hiệp làm Tiết chế.

Mạc Thiên Tứ đem các con đến yết kiến, được thăng làm Đô đốc, các con làm Chưởng Cơ, Cai Cơ, đóng giữ đạo Trấn Giang [An Giang-Hà Tiên].

Nguyễn Nhạc tiến đánh Quảng Nam.

Đông Cung đóng quân ở Cu Đê [cửa biển Cu Đê cách huyện Hòa Vang 27 dặm về phiá Bắc].

Tháng 3/1775 (tháng 2 ÂL.) Hoàng Ngũ Phúc vượt Hải Vân vào đánh Quảng Nam.

Nguyễn Nhạc cùng các tướng Tập Đình và Lý Tài, người Tầu, giao tranh với quân Trịnh của Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ ở Cẩm Sa. Thua trận, Tập Đình trốn về Quảng Đông. Lý Tài chạy về Bản Tân [biên giới Quảng Nam].

Nguyễn Nhạc đem Đông cung về Quy Nhơn.

Tháng 6/1775 (tháng 5 ÂL.), Tống Phước Hiệp chiếm lại Phú Yên.

Tháng 8/1775 (tháng 7 ÂL.), Nguyễn Huệ tấn công Phú Yên. Hiệp thua, lui giữ Hòn Khói.

Tháng 11/1775) (tháng 10 ÂL.), Hoàng Ngũ Phúc, đóng ở Châu Ổ [địa giới Quảng Ngãi], quân bị bệnh dịch, chết một nửa, xin Trịnh Sâm rút về Thuận Hoá, rồi mất ở dọc đường.

Châu Văn Tiếp, người Phú Yên, đem 1000 quân về theo Tống Phước Hiệp. Lý Tài bỏ Tây Sơn theo chúa Nguyễn.

Đỗ Thanh Nhơn chiếm lại Gia Định

Tháng 3-4/1776 (tháng 2/ Bính Thân), Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ vào chiếm Gia Định.

Tống Phước Hựu đưa Định Vương chạy về Trấn Biên [Biên Hoà], mộ quân cần vương.

Tháng 4-5/1776, (tháng 3 ÂL.) Nguyễn Nhạc đắp thành Trà Bàn [Quy Nhơn], lên ngôi vua là Tây Sơn Vương. Cho Lữ làm thiếu phó, Huệ làm phụ chính (Thực Lục ghi tháng 3, Liệt truyện ghi tháng 2 ÂL.).

Tháng 6-7/1776 (tháng 5 ÂL.), Đỗ Thành Nhơn, thủ lãnh hảo hán ở Ba Giồng tập hợp Nguyễn Huỳnh Đức (Nguyễn Hoàng Đức), Trần Búa, Đỗ Vàng, Đỗ Tai, Võ Nhan, Đỗ Bảng và 3000 quân “Đông Sơn cần vương”, tự xưng là Đông Sơn thượng tướng quân, chiếm lại Gia Định.

Ba Giồng tức Tam Phụ, nơi tụ hợp ba sông Yến, Kỳ Lân và Qua Qua, có gò đống chập chùng, cây cối um tùm, vị trí hiểm trở, phía trước là sông cái, phiá sau, rừng chằm, là chỗ tụ nghiã của đảng Đông Sơn, Đỗ Thanh Nhơn là chủ soái (Đại Nam nhất thống chí, Tập 5, t. 95).

Đỗ Thanh Nhơn và Nguyễn Huỳnh Đức trở thành những đại tướng của Nguyễn Ánh.

Quân Đông Sơn tiến đánh Gia Định, Nguyễn Lữ thua chạy, kịp chở kho thóc 200 thuyền, về Quy Nhơn.

Tháng 7-8/1776 (tháng 6 ÂL.), Tống Phước Hiệp chết. Lý Tài làm phản, giữ núi Châu Thới. Đỗ Thanh Nhơn đánh không được. Định Vương phải chạy trốn.

Tháng 11-12/1776 (tháng 10 ÂL.), Đông cung trốn Nguyễn Nhạc về Gia Định, đem quân dẹp Lý Tài. Nhìn thấy cờ hiệu, Lý Tài quy hàng.

Tháng 12/1776-1/1777 (tháng 11 ÂL.) Lý Tài đón Đông Cung về Sài Gòn. Định Vương nhường ngôi cho Đông Cung làm Tân Chính Vương, còn mình lên làm Thái Thượng Vương.

Đội trưởng Võ Di Nguy và Tô Văn Đoài đem 200 quân, từ Quy Nhơn, về giúp chúa Nguyễn.

Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ nhất, diệt chúa Nguyễn

Tháng 2/1777 (tháng 1/Đinh Dậu) Nguyễn Nhạc xin Trịnh Sâm làm trấn thủ Quảng Nam để yên mặt Bắc. Sau khi Hoàng Ngũ Phúc chết, Trịnh Sâm cũng không muốn tiếp tục chiến tranh, thuận cho.

Tháng 4-5/1777 (tháng 3 Đinh Dậu), Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ vào đánh Gia Định.

Lý Tài giữ Sài Gòn. Tân Chính Vương giữ Trấn Biên [Biên Hoà].

Lý Tài thua chạy đến Tam Phụ [Ba Giồng, thuộc Định Tường] bị quân Đông Sơn giết chết. Tân Chính Vương lui về Tranh Giang [Gia Định].

Định Vương chạy đến Đăng Giang [Định Tường].

Nguyễn Ánh đem 4000 quân Đông Sơn đến đón, Định Vương đem quân về Tài Phụ [Giồng Tài, Gia Định].

Tháng 5/1777 (tháng 4 ÂL.), Nguyễn Huệ đánh Tài Phụ. Định Vương chạy sang Long Hưng, bị đuổi, chạy đến Cần Thơ hợp với quân của Mạc Thiên Tứ, sau khi thua ở Hà Tiên chạy về.

Định Vương sai Đỗ Thanh Nhơn đi Bình Thuận gọi Châu Văn Tiếp, Trần Văn Thức về cứu.

Tây Sơn đánh Tranh Giang. Tân Chính Vương lui về Trà Tân [Định Tường], Chưởng cơ Thiêm Lộc đón Vương đến Ba Việt [Vĩnh Long].

Tân Chính Vương sai Tống Phước Hựu giữ Mỹ Lung [Vĩnh Long], Thiêm Lộc giữ Hương Đôi [Vĩnh Long]. Tống Phước Hoà thống lãnh quân đội.

Tháng 8/1777 (tháng 7 ÂL.), Trần Văn Thức kéo quân Phú Yên về giúp, thua trận, chết ở Bình Thuận.

Tây Sơn đánh Ba Việt, các tướng Tôn Thất Chí, Nguyễn Mẫn, Tống Phước Hựu đều bị bệnh chết, chỉ còn một mình Chưởng cơ Tống Phước Hoà chống trả, thắng nhiều trận.

Tháng 9/1777 (tháng 8 ÂL.), Nguyễn Huệ đích thân đánh Hương Đôi. Thiêm Lộc chạy đi Ba Việt. Tân Chính Vương thấy quân ít thế cô, muốn chạy lên Bình Thuận, họp với quân Châu Văn Tiếp, nhưng không thành. Tống Phước Hoà thấy không thể cứu được chúa, tự tử.

Ngày 19/9/1777 (ngày Tân Hợi 18/8/Đinh Dậu) Tân Chính Vương và 18 quan theo hầu bị giết. Sau được truy tặng là Mục Vương.

Còn Định Vương Nguyễn Phước Thuần chạy đi Long Xuyên.

Tháng 10/1777 (tháng 9 ÂL.), Nguyễn Huệ sai Chưởng cơ Thành đánh Long Xuyên.

Ngày 18/10/1777 (ngày Canh Thìn 18/9/Đinh Dậu), Định Vương bị giết cùng với Tôn Thất Đồng (con thứ hai Hưng tổ, anh ruột Nguyễn Ánh) và các tướng: Trương Phúc Thận, Lưu thủ Lương (không rõ họ), Nguyễn Danh Khoáng.

Một mình Nguyễn Ánh, 15 tuổi, chạy thoát.

Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn, để các tướng Chu, Hãn, Oai, Hoà, Chấn (không rõ họ) chia giữ các dinh ở Gia Định.

Nguyễn Ánh lấy lại Gia Định, xưng vương

Một tháng sau, Nguyễn Ánh xuất hiện lại ở Long Xuyên.

Tháng 11/1777 (tháng 10 ÂL.), Nguyễn Ánh tiến đến Sa Đéc cùng Đỗ Thanh Nhơn, Lê Văn Quân, họp với các tướng cũ: Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Dương Công Trừng, Hồ Văn Lân.

Tháng 12/1777 (tháng 11 ÂL.), quân Nguyễn đánh úp Long Hồ [Vĩnh Long].

Tháng 1/1778 (tháng 12 Đinh Dậu) Đỗ Thanh Nhơn chiếm Sài Gòn.

Tháng 2/1778 (tháng 1 Mậu Tuất) Nguyễn Ánh, 16 tuổi, được các tướng tôn làm Đại nguyên soái.

Tháng 3/1778 (tháng 2 ÂL.), Tổng đốc Chu (Tây Sơn) đánh Trấn Biên [Biên Hoà] và Phiên Trấn [Gia Định].

Tháng 4/1778 (tháng 3 ÂL.), Nguyễn Ánh sai đóng hơn 50 chiến hạm gọi tên là thuyền hiệu [tức là tầu chiến] Long Lân và mua nhiều bè hoả công.

Tháng 6/1778 (tháng 5 ÂL.), Lê Văn Quân và Đỗ Thanh Nhơn dẹp xong quân Tây Sơn ở Gia Định, Lê Văn Quân tiến đánh Bình Thuận.

Tháng 6/1778, tại Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, hiệu Thái Đức, phong Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.

Trong hai năm (1778-1779), ở tuổi 16 và 17, Nguyễn Ánh tổ chức lại Gia Định.

Tháng 4-5/1779 (tháng 3 Kỷ Hợi), Ánh rước Từ cung từ Quảng Trị về Gia Định (khi Hoàng Ngũ Phúc chiếm Phú Xuân năm 1774, mẹ Nguyễn Ánh và các công chúa chạy ra Quảng Trị).

Tháng 7-8/1779 (tháng 6 ÂL.), Ánh sai Đỗ Thanh Nhơn, Hồ Văn Lân, Dương Công Trừng đánh Chân Lạp, giết Nặc Vinh (kẻ thoán đoạt), lập Nặc Ấn lên ngôi, để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ Chân Lạp.

Tháng 12/1779-1/1780 (tháng 11 ÂL.) Ánh chia lại đất Gia Định. Lập hành chính và quan thuế.

Ngày 28/2/1780 (ngày Quý Mão 24/1/Canh Tý) Nguyễn Ánh xưng vương.

Thăng chức cho các tướng: Đỗ Thanh Nhơn, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Nguyễn Đình Thuyên, Trần Đại Thể.

Lập các bộ: Lại, do Hồ Đồng phụ trách. Hộ, Trần Phúc Giai. Lễ, Nguyễn Nghi. Binh, Minh (Không rõ họ). Hình, Trần Minh Triết.

Ngày 6/4/1780 (ngày Tân Tỵ 2/3/Canh Tý) sinh hoàng tử Cảnh, con của nguyên phi Tống thị, con gái Tống Phước Khuông, Ánh cưới năm Mậu Tuất (1778), lúc 16 tuổi.

Tháng 5/1780 (tháng 4 ÂL.) Đỗ Thanh Nhơn và Dương Công Trừng, tìm cách móc các thuyền chiến lại với nhau, đánh chiếm được Trà Vinh.

Tháng 7/1780 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Vương sai 2 cai cơ Sâm, Tĩnh sang Xiêm thông hiếu. Cùng lúc ấy, một thuyền buôn Xiêm đi qua Hà Tiên bị lưu thủ Thăng cướp và giết; rồi một người Chân Lạp tâu bịa với vua Xiêm là Gia Định đã gửi mật thư sai Tôn Thất Xuân, Mạc Thiên Tứ làm nội ứng để chiếm Vọng Các. Vua Xiêm nổi giận, giam Sâm, Tĩnh và bắt gia đình Mạc Thiên Tứ hỏi tội. Mạc Tử Duyên (con Mạc Thiên Tứ) bị đánh chết. Mạc Thiên Tứ tự tử. Tôn Thất Xuân, Sâm và Tĩnh cùng quyến thuộc của Mạc Thiên Tứ, 53 người đều bị hại.

Tháng 8/1780 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Vương lại sai đóng thêm thuyền chiến. Đỗ Thanh Nhơn sáng tạo thuyền trường đà (bánh lái dài), rất lợi hại.

Tháng 4/1781 (tháng 3/Tân Sửu) Đỗ Thanh Nhơn chuyên quyền bị giết. Quân Đông Sơn nổi dậy.

Tháng 5-6/1781 (tháng 5 ÂL.) Vương duyệt binh: khoảng 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 thuyền chiến lớn, 2 tầu Tây, định đánh Tây Sơn, nhưng xẩy ra cuộc biến Đông Sơn, phải rút quân về.

Tháng 6-7/1781 (tháng 5 nhuận), thuộc hạ của Đỗ Thanh Nhơn làm phản. Phải dẹp mãi.

Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ nhì

Tháng 4-5/1782 (tháng 3/Nhâm Dần) Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem 100 chiến thuyền đánh vào cửa Cần Giờ.

Nguyễn Vương sai Tống Phước Thiêm thống lãnh quân đội, bày thủy trận chống cự ở Ngã Bẩy [còn gọi là Thất kỳ giang, nơi bẩy dòng họp lại chằng chịt nhau, ở Biên Hoà, cách huyện Phước An 37 dặm về phiá tây bắc]. Quân Nguyễn thua to.

Một mình cai cơ người Pháp tên là Mạn Hoè (Manuel hay Emmanuel) đi tầu Tây, cố sức đánh rất lâu. Mạn Hoè do Bá Đa Lộc giới thiệu, được giữ chức cai cơ, coi đội Trung Khuông. Tây Sơn đốt tầu, Mạn Hoè chết cháy. Được truy tặng là Hiếu nghiã công thần phụ quốc thượng tướng quân. Được thờ ở đền Hiển Trung ở Gia Định (Thực Lục, I, t. 211-212, Liệt truyện, tập 2, t. 506). Đối với triều Nguyễn, Mạn Hoè là người Pháp có công lớn nhất trong thời kỳ lịch sử này.

Nguyễn Ánh đốc binh giao tranh ở Ngã Ba [Ngã ba Nhà Bè, Biên Hoà, cách huyện Long Thành 32 dặm về phía tây Nam], Ánh thua, chạy đi Ba Giồng [Định Tường]. Tống Phước Thiêm, vì lúc trước xui vua giết Đỗ Thanh Nhơn bị quân Đông Sơn thù, giết chết.

Nguyễn Ánh chạy ra Phú Quốc.

Tháng 6-7/1782 (tháng 5 ÂL.) Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ trở về Qui Nhơn, để hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ Gia Định.

Châu Văn Tiếp chiếm lại Gia Định

Tháng 9-10/1782 (tháng 8 ÂL.), Châu Văn Tiếp chiếm lại Gia Định, đón Nguyễn Ánh về.

Nguyễn Ánh sửa sang quân ngũ:

Châu Văn Tiếp làm ngoại tả Chưởng dinh, Tôn Thất Dụ làm ngoại hữu Chưởng dinh, vv…

Sai cai cơ Trung thủy Võ Di Nguy, cai cơ Tiền thuỷ Trương Phúc Dĩnh tập hợp những thủy binh ngạch cũ, sửa đóng chiến thuyền.

Tây Sơn quyết định đánh Gia Định.

Nguyễn Ánh được tin Tây Sơn sắp vào, sai đắp đồn Thảo Câu [Vàm Cỏ] và đồn Dác Ngư [Cá Dốc] ở phiá Nam và phía Bắc sông lớn Gia Định, giao cho Dương Công Trừng và Tôn Thất Mân giữ. Trên sông dàn 100 chiến thuyền do Châu Văn Tiếp, Tôn Thất Cốc, Võ Di Nguy… quản thủ. Giám quân Tô coi bè hoả công.

Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ ba

Tháng 2/1783 (tháng 1 Quý Mão), đại binh Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ từ cửa Cần Giờ đánh lên, tư khấu Nguyễn Văn Kim đánh bờ Bắc, đô đốc Lê Văn Kế đánh bờ Nam.

Bè hoả công của quân Nguyễn bị ngược gió, quay trở lại đốt thuyền mình. Tôn Thất Mân tử trận, Dương Công Trừng bị bắt. Châu Văn Tiếp chạy sang Xiêm cầu cứu.

Nguyễn Ánh chạy đi Ba Giồng, bầy tôi chỉ còn nhóm Nguyễn Kim Phẩm 5, 6 người. Số quân không đầy 100.

Tháng 5/1783 (tháng 4 ÂL.), Nguyễn Ánh lại tập họp các đạo quân, Nguyễn Kim Phẩm tiên phong, đóng ở Đồng Tuyên [Gia Định].

Nguyễn Huệ tiến đánh Đồng Tuyên. Quân Nguyễn thua to. Các tướng: Đồng bị bắt; Minh, Quý, Thuyên, Huề, đều tử trận.

Nguyễn Ánh chạy đi Lật Giang [Gia Định] nước sông chảy mạnh. Ánh bơi giỏi, thoát chết, binh sĩ chết đuối nhiều. Ánh đi Mỹ Tho, lấy thuyền chở cung quyến ra Phú Quốc, sai Tôn Thất Cốc và Trần Đĩnh ra Cần Giờ thăm thú tình hình. Đĩnh không theo lệnh, bị Cốc giết. Đồ đảng của Đĩnh là Trần Hưng và Lâm Húc (người Tầu) chiếm giữ Hà Tiên. Nguyễn Kim Phẩm về Hà Tiên thu quân.

Thái trưởng công chúa Ngọc Đảo (con thứ bẩy Võ Vương, cô Nguyễn Ánh) cũng đến coi việc quân nhu, đều bị bọn Hưng giết. Nguyễn Ánh hay tin, đem binh thuyền đến đánh, Hưng, Húc bỏ chạy. Tướng Xiêm Vinh Li Ma đem 200 quân và chục chiến thuyền đến theo.

Tháng 7/1783 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Ánh đóng ở hòn Điệp Thạch (đá chồng) Phú Quốc, Phan Tiến Thuận (Tây Sơn) đến đánh, Lê Phúc Điển mặc áo ngự, liều mình cứu vua.

Tháng 7/1783, Tôn Thất Điển (con thứ sáu Hưng tổ, em Nguyễn Ánh), Tôn Thất Cốc, chưởng cơ Hoảng và Vinh Li Ma đều bị Tây Sơn bắt, giết. Vợ Hoảng tự tử.

Nguyễn Ánh chạy thoát ra Côn Lôn.

Tháng 8/1783 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Huệ sai phò mã Trương Văn Đa vây Côn Lôn. Nhờ bão, thuyền Tây Sơn bị đắm, Nguyễn Ánh vượt vòng vây, đến đảo Cổ Cốt, rồi quay về Phú Quốc.

Quân lính phải ăn cỏ, ăn rễ cây. Nguyễn Đức Xuyên liều chết kiếm đồ ăn cho Nguyễn Ánh.

Nghe tin Bá Đa Lộc ở Chân Bôn (Chantabun, Xiêm), Ánh sai người đến mời. Trao hoàng tử Cảnh, 3 tuổi, cùng với quốc ấn cho Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, để mẫu hậu và hoàng hậu ở lại Phú Quốc. (Thực Lục I, t. 218). Tuy nhiên trong thư viết từ Pondichéry ngày 20/3/1785 cho Hội truyền giáo, Bá Đa Lộc không nói đến việc này (Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, III, t. 84-92).

Thuyền Nguyễn Ánh tới cửa biển Ma Li [huyện Yên Phước, tỉnh Bình Thuận] bị vây rất ngặt, chạy quanh bẩy ngày đêm, mới trở lại được Phú Quốc. Quần thần còn lại: Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội, Đỗ Văn Hựu, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm và Nguyễn Đức Xuyên.

Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ về lại Quy Nhơn, để Trương Văn Đa ở lại giữ Gia Định.

Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm

Tháng 2/1784 (tháng 1 Giáp Thìn) Nguyễn Ánh trú ở đảo Thổ Châu.

Tháng 2-3/1784 (tháng 1 nhuận) Hồ Văn Lân, Tôn Thất Hội, Lê Văn Quân, thua trận, chạy sang Xiêm.

Tháng 3-4/1784 (tháng 2 ÂL.) Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm, có hơn 30 quan đi theo và vài chục lính.

Tháng 4-5/1784 (tháng 3 ÂL.) Nguyễn Ánh đến Vọng Các, được tiếp đón tử tế.

Châu Văn Tiếp sau khi thua trận đã sang Xiêm cầu viện trước, được vua Xiêm chấp thuận. Định ngày cử binh.

Tháng 7-8/1784 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Ánh đem quân về Gia Định. Vua Xiêm sai hai người cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem hai vạn thuỷ binh và 300 chiến thuyền về giúp.

Nguyễn Ánh phong Châu Văn Tiếp làm Bình Tây đại độ đốc, điều bát các quân.

Tháng 8-9/1784 (tháng 7 ÂL.) quân Nguyễn và Xiêm tiến đánh Kiên Giang, chiếm được Ba Xác, Trà ôn, Mân Thít, Sa Đéc.

Lấy Mạc Tử Sinh (con Mạc Thiên Tứ) làm tham tướng Hà Tiên.

Tháng 11-12/1784 (tháng 10 ÂL.) Châu Văn Tiếp đánh trận trên sông Mân Thít [Vĩnh Long], chống với Chưởng tiền Bảo của Tây Sơn, bị gươm đâm trúng, tử trận.

Tháng 12/1784-1/1785 (tháng 11 ÂL.) Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân làm Tổng nhung, chiếm lại được 2 đồn Ba Lai và Trà Tân ở Định Tường.

Thái giám Lê Văn Duyệt và đội trưởng Lê Văn Khiêm, trước bị Tây Sơn bắt, nay trốn về.

Nguyễn Ánh sai cai đội Nguyễn Văn Thành đi thu phục quân Đông Sơn.

Quân Xiêm tàn bạo đi đến đâu là cướp bóc.

Nguyễn Huệ vào Gia Định lần thứ tư, đại phá quân Xiêm

Tháng 1-2 /1785 (tháng 12 Giáp Thìn) Nguyễn Huệ vào Gia Định, phục quân ở Rạch Gầm (Định Tường) và sông Xoài Mút (Định Tường), dụ quân Xiêm đến, phá tan 2 vạn Xiêm. Lê Văn Quân thua chạy.

Nguyễn Ánh chạy đi Trấn Giang (An Giang), bầy tôi còn lại hơn 10 người.

Trong khi ấy, Bá Đa Lộc, vẫn còn quanh quẩn ở lại trong vùng, chưa đi. Sau khi Nguyễn Huệ phá tan quân Xiêm, Nguyễn Ánh khẩn cấp giục Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm và Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh (4 tuổi) sang Tây. Bá Đa Lộc đến Pondichéry (Ấn độ) cuối tháng 2/1785 (thư Bá Đa Lộc viết ngày 20/3/1785 cho Hội truyền giáo, Launay III, t. 84-92).

Tháng 2-3/1785 (tháng 1 Ất Tỵ) Nguyễn Ánh ở đảo Thổ Châu.

Tháng 4-5/1785 (tháng 3 ÂL.), quân Tây Sơn đuổi đến Thổ Châu, Nguyễn Ánh chạy qua đảo Cổ Cốt, rồi sang Xiêm.

Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn để Đặng Văn Trấn (Chấn) giữ Gia Định.

Nguyễn Ánh tạm trú ở Xiêm La

Theo Nguyễn Ánh sang Xiêm có 30 quần thần, 200 quân và 5 chiến thuyền: Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Trì, Chính Nghi, Thuyền Ô (Thực Lục I, t. 223). Điều này chứng tỏ Nguyễn Ánh đã đóng được thuyền đại hiệu bọc đồng, [tầu chiến bọc đồng theo kiểu Tây Phương như Phượng Phi và Bằng Phi] từ năm 1785. Tầu Phượng Phi năm 1790 sẽ giao cho Trần Văn Học và Nguyễn Văn Chấn (Vannier) cai quản (Liệt truyện II, t. 282).

Trong số quần thần đi theo: Tốn Thất Hội, Trương Phúc Dĩnh, Nguyễn Văn Định, Trương Phúc Luật, Tống Phước Ngạn, Nguyễn Văn Thành, Đỗ Văn Hựu, Tô Văn Đoài, Nguyễn Văn Mẫn, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Văn Khiêm… nhiều người sẽ lập công lớn sau này.

Nguyễn Ánh xin trú ở Long Kỳ (Xiêm gọi là Đồng Khoai), ngoại thành Vọng Các, sai người đi đón quốc mẫu và cung quyến sang.

Tháng 6-7/1785 (tháng 5 ÂL.), Lê Văn Quân đem 600 quân đến Vọng Các, nhiều quần thần cũ tiếp tục sang theo. Nguyễn Ánh sai làm đồn điền nuôi quân, sai ra hải đảo đóng thuyền chiến, sai người ngầm về Gia Định mộ lính.

Tháng 1/1786 (tháng 12 Ất Tỵ) Dương Công Trừng sau khi thua trận Dác Ngư bị bắt, trốn thoát, họp cùng Lê Thượng và Nguyễn Tần do Nguyễn Ánh sai về do thám, cùng chiếm lại Long Xuyên. Thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Tham đem quân từ Sài Gòn ra đánh.

Lê Thượng và Nguyễn Tần tử trận. Dương Công Trừng bị bắt lần thứ hai, không chịu hàng, bị Phạm Văn Tham giết.

Tháng 3/1786 (tháng 2 Bính Ngọ) Diến Điện đánh Xiêm. Vua Xiêm hỏi kế hoạch. Nguyễn Ánh thân chinh trợ chiến, sai Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành đi trước, dùng ống phun lửa để đánh. Địch quân thua to, rút về. Vua Xiêm đề nghị giúp Ánh thu phục Gia Định. Nguyễn Văn Thành gạt đi. Ánh khen phải.

Tháng 4/1786 (tháng 3 ÂL.) Ánh sai Hoàng Tiến Cảnh, Nguyễn Văn Nhàn, Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Định, Trương Phúc Luật, đem quân ra núi Giang Khảm đóng một chục chiến thuyền.

Quân Chà Và (Mã Lai) đánh Xiêm. Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân đem thuỷ binh dẹp tan.

Nguyễn Huệ diệt họ Trịnh ở Bắc

Ở Bắc, ngày 19/10/1782 (13/9/Nhâm Dần) Trịnh Sâm mất (Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Thì Chí, bản dịch Ngô Tất Tố, nxb Phong trào văn hoá Sài Gòn, 1969, t. 27). Lập con thứ là Trịnh Cán, 5 tuổi, con Đặng Thị Huệ lên ngôi, có Hoàng Tố Lý (tức Huy quận công Hoàng Đình Bảo) làm phụ chính.

Ngày 28/11/1782 (24/10 Nhâm Dần) (Hoàng Lê, t. 37), quân Tam phủ (lính Thanh-Nghệ tức kiêu binh) đảo chính, theo âm mưu của Trịnh Khải (tức Trịnh Tông), con trưởng Trịnh Sâm. Tam phủ giết Tố Lý, bỏ Trịnh Cán, lập Trịnh Khải.

Tháng 12/1782 (tháng 11 ÂL.) Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An, là thuộc tướng của Tố Lý, vượt biển vào Quảng Nam theo Nguyễn Nhạc, được Nhạc tin dùng, phong chức đô đốc.

Quân Tam phủ cậy công làm loạn ở đất Bắc.

Nguyễn Hữu Chỉnh xui Nguyễn Nhạc nên nhân cơ hội chiếm Phú Xuân.

Ngày 25/5/1786 (28/4 Bính Ngọ) (Hoàng Lê, t. 77), Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ thống lĩnh thuỷ bộ tiến đánh Phú Xuân: Nguyễn Hữu Chỉnh, tả quân đô đốc; Võ Văn Nhậm (con rể Nguyễn Nhạc), hữu quân đô đốc; Nguyễn Lữ, thuỷ quân. Quân Trịnh thua to.

Ngày 31/5/1786 (4/5/Bính Ngọ) chiếm được Phú Xuân, Huệ còn lưỡng lự, Chỉnh xui tiến quân ra Bắc (Hoàng Lê, t. 81).

Nguyễn Huệ để Nguyễn Lữ giữ Phú Xuân, đem quân ra Bắc. Viết thư về bẩm Nguyễn Nhạc. Nhạc không băng lòng, gửi người chận lại, nhưng tới nơi, Huệ đã vượt biển đi rồi.

Tháng 7/1786 (tháng 6 ÂL.), Nguyễn Huệ tiến đánh Thăng Long.

Đinh Tích Nhưỡng đại bại ở Lỗ Giang (Sơn Nam)

Hoàng Phùng Cơ đại bại ở sông Thúy Ái. Sáu người con đều tử trận

Nguyễn Huệ tiến thẳng đến bến Tây Long, Trịnh Khải ra trận chỉ huy. Tây Sơn đốt ống phun lửa xông vào, quân Trịnh tan vỡ.

Ngày 21/7/1786 (26/6 Bính Ngọ) Nguyễn Huệ vào Thăng Long. (Liệt truyện, II, t. 538).

Trịnh Khải bỏ chạy lên Sơn Tây thì bị bắt, cắt cổ tự vận, ngày 22/7/1786 (27/6 /Bính Ngọ) (Hoàng Lê, t. 82).

Nguyễn Huệ vào Thăng Long, được vua Lê Hiển Tông gả Ngọc Hân công chúa.

Ngày 3/8/1786 (10/7/Bính Ngọ) Nguyễn Huệ đưa đồ sính lễ: Hai trăm lạng vàng, hai nghìn lạng bạc, hai chục tấm đoạn.

Ngày 4/8/1786 (11/7/Bính Ngọ) làm lễ rước dâu (Hoàng Lê, t. 103)

Ngày 10/8/1786 (17/7/Bính Ngọ) vua Lê Hiển Tông mất (Hoàng Lê, t. 105). Lê Duy Kỳ lên ngôi, hiệu là Chiêu Thống.

Nguyễn Nhạc hay tin Huệ diệt xong Trịnh, sợ em cậy công kiêu ngạo, không kiểm soát được; tức tốc ngày đêm ra Thăng Long. Ở lại 10 ngày.

Hai anh em cùng rút quân về Nam. Bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.

Chỉnh sợ, chạy theo đến Nghệ An. Huệ cho ở lại giữ Nghệ An cùng với Nguyễn Văn Duệ.

Trở về Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương hoàng đế, phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương trấn đất Gia Định, Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, trấn đất Thận Hoá.

Anh em Tây Sơn bất hoà, Nguyễn Ánh trở về Gia Định

Mùa đông, 1786, anh em Tây Sơn bất hoà. Nguyễn Huệ đem quân đánh, Nguyễn Nhạc gọi đô đốc Đặng Văn Trấn ở Gia Định về cứu.

Đặng Văn Trấn để Trần Tú giữ Gia Định, đem quân về đến Tiên Châu (Phú Yên) thì bị quân Nguyễn Huệ bắt được. Nguyễn Huệ vây Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc phải lên thành kêu khóc, Nguyễn Huệ thương tình rút quân về.

Tháng 2-3/1787 (tháng 1 Đinh Mùi), Bồ Đào Nha sẵn sàng giúp Ánh quân đội và 56 thuyền chiến đậu ở thành Goa (Ấn độ). Vua Xiêm không bằng lòng, Ánh phải từ chối.

Tháng 3-4 (tháng 2 ÂL.), Tống Phước Đạm, Nguyễn Đô, Tống Phước Ngọc, Nguyễn Văn Thiệm đến yết kiến. Tống Phước Đạm báo tin anh em Tây Sơn bất hoà, Gia Định đơn yếu, đánh được và trình bầy sách lược tấn công.

Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ giữ Gia Định cùng với thái bảo Phạm Văn Tham.

Ngày 13/8/1787 (1/7 Đinh Mùi) Nguyễn Ánh viết thư tạ từ vua Xiêm, đang đêm xuống thuyền đem cung quyến về nước, trú ở Hòn Tre. Sai Võ Di Nguy và Phạm Văn Nhân trông nom cung quyến ở Phú Quốc.

Thuyền Nguyễn Ánh đến Long Xuyên.

Nguyễn Văn Trương, Chưởng cơ Tây Sơn, đem 300 quân tinh nhuệ và 15 chiến thuyền về theo, Ánh trao chức Khâm Sai Chưởng Cơ, quản đạo Tiên phong Thuỷ dinh Trung quân.

Nguyễn Văn Trương chiếm đồn Trà Ôn [Vĩnh Long].

Nguyễn Văn Nghiã đem quân sở bộ đến giúp, được trao chức Chưởng cơ.

Tháng 10-11/1787 (tháng 9 ÂL.) Nguyễn Ánh đến cửa Cần Giờ. Nhiều đạo quân theo giúp.

Nguyễn Lữ, hay tin, lui về Lạng Phụ [Biên Hoà], đắp luỹ đất để giữ.

Phạm Văn Tham giữ vững Sài Gòn, quân Nguyễn không thể hạ được.

Tống Phước Đạm bèn giả thư Nguyễn Nhạc gửi Nguyễn Lữ sai giết Phạm Văn Tham vì tội làm phản, rồi bỏ thư vào nhà Tham. Tham sợ quá, kéo cờ trắng, đem quân đến Lạng Phụ. Lữ nhìn thấy cờ trắng tưởng Tham đã ra hàng, vội chạy về Quy Nhơn rồi chết. Phạm Văn Tham ở lại chống đỡ.

Tướng Tây Sơn Nguyễn Kế Nhuận đem 10 chiến thuyền đến hàng, Ánh phong cho làm Hữu quân khâm sai bình Tây đô đốc.

Nguyễn Văn Quân thắng Tây Sơn ở Ba Lai [Định Tường] tiến đóng Mỹ Tho.

Phạm Văn Tham tiến đánh Mỹ Tho, Nguyễn Đăng Vân (hàng tướng Tây Sơn) bị bắt, bị giết.

Quân Nguyễn thắng nhiều trận, nhưng Phạm Văn Tham vẫn kiên trì chống giữ.

Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhì

Ở Bắc, Trịnh Lệ [con chúa Trịnh Doanh (1740-1767)], em ruột Trịnh Sâm, trước đã mưu cướp ngôi anh; nay thấy Nguyễn Huệ về Phú Xuân, bèn nổi lên tranh quyền với Trịnh Bồng [con chúa Trịnh Giang (1730-1740), Bồng là chú của Lệ]. Vua Lê Chiêu Thống bất đắc dĩ phải phong cho Trịnh Bồng làm Án Đô Vương, dựng lại phủ chúa như cũ.

Họ Trịnh trở lại chuyên quyền, Lê Chiêu Thống gọi Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra giúp. Trịnh Bồng thua chạy. Bỏ đi tu. Nguyễn Hữu Chỉnh được phong chức Đại Tư Đồ.

Dẹp xong họ Trịnh, Chỉnh mưu việc giữ từ sông Gianh trở ra, như thời chúa Trịnh thủa trước. Nguyễn Huệ gọi về, không về, Huệ sai Võ Văn Nhậm ra diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Lê Chiêu Thống bỏ kinh đô, theo Nguyễn Hữu Chỉnh lên đóng ở Mục Sơn (Yên Thế). Nguyễn Hữu Chỉnh thua trận, bị bắt về Thăng Long hành tội.

Giết Chỉnh rồi, Nhậm tìm vua Chiêu Thống không được, bèn tôn Lê Duy Cẩn làm Giám quốc.

Tháng 4-5/1788 (tháng 3 Mậu Thân) lại nghe tin Võ Văn Nhậm chuyên quyền ở Bắc, Nguyễn Huệ tức tốc ra Thăng Long, bắt giết đi. Chiêu Thống chạy sang Tầu.

Nguyễn Huệ để Ngô Văn Sở ở lại giữ Thăng Long, rồi về Phú Xuân.

Tại Pháp, ngày 28/11/1787, Bá Đa Lộc ký với de Montmorin hiệp ước cầu viện ở Versailles.

Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định

Tháng 5/1788 (tháng 4 ÂL.) Võ Tánh đem quân về giúp. Tánh người Bình Dương. Anh là Võ Nhàn, thuộc tướng của Võ Thanh Nhơn. Khi Nhơn bị giết, Nhàn họp quân Đông Sơn chống lại, bị bắt và bị giết. Võ Tánh tụ đảng ở Gò Công hơn vạn người, phục kích đánh Tây Sơn.

Võ Tánh, Châu Văn Tiếp và Đỗ Thanh Nhơn được Tây Sơn coi là ba anh hùng.

Nguyễn Ánh phong Võ Tánh làm Khâm Sai Tổng nhung Chưởng cơ dinh Tiên phong, đem công chúa thứ hai của Hưng tổ là Ngọc Du (chị/em Nguyễn Ánh) gả cho.

Cục diện quân sự của Nguyễn Ánh, từ khi có Nguyễn Văn Trương (Tây Sơn) và Võ Tánh về giúp, thay đổi hoàn toàn.

Tháng 6/1788 (tháng 5 ÂL.) Nguyễn Ánh sửa đắp đồn luỹ, cùng làm với các tướng sĩ. (Thực Lục I, t. 233).

Tháng 7/1788 (tháng 6 ÂL.) Ánh cho Mạc Tử Sinh (con Mạc Thiên Tứ) làm lưu thủ Hà Tiên. Lấy Nguyễn Văn Nhân làm khâm sai cai cơ vệ Thần Sách (Công binh và Pháo binh), dinh Trung quân.

Tháng 8/1788 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Ánh cử đại binh tiến đánh Gia Định.

Ngày 7/9/1788 (8/8 Mậu Thân), quân Nguyễn chiếm lại thành Gia Định. Phạm Văn Tham dàn hàng rào chống cự từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung. Võ Tánh đem quân đi vòng phiá nam Đồng Tập Trận [ở ngoại thành Sài Gòn] đánh thẳng vào Bến Nghé, chặn nẻo sau. Quân Phạm Văn Tham tan vỡ. Phạm Văn Tham lui giữ Hàm Luông [Vĩnh Long] rồi Ba Xắc [Ba Thắc, An Giang?].

Nguyễn Ánh sai người đến dụ hàng. Tham không chịu hàng, đắp thành đất ở hai bên bờ sông Ba Xắc, bày chiến thuyền chống giữ.

Nguyễn Ánh vào thành Sài Gòn, để Tôn Thất Hội chỉ huy trận điạ.

Tháng 10/1788 (tháng 9 ÂL.) đón cung quyến từ Phú Quốc về.

Chấm dứt giai đoạn lưu vong. Bình định miền Nam.

Nguyễn Văn Thành được bổ làm Tổng nhung dinh Trung quân.

Sai Trịnh Tân Tài và Chu Văn Quan đi Hạ Châu (Singapor) mua súng đạn, lưu hoàng và diêm tiêu. Sai Nguyễn Thái Nguyên phụ trách bộ Lại; Phan Thiên Trúc Nguyễn Bảo Trí, bộ Hộ; Tống Phước Đạm, bộ Binh; Ngô Hữu Hựu, bộ Hình.

Tuy chưa có bộ Lễ và bộ Công, nhưng Ánh đã lập vệ Thần Sách, tức là Công binh và pháo binh, do Nguyễn Văn Nhân điều khiển.

Phan Như Đăng, Trần Đại Luật, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu, và Hoàng Minh Khánh, làm Hàn Lâm Viện chế cáo (báo trình, luật, tắc). Lê Xuân Minh, Lê Phúc Mão, Hồ Phúc Uẩn, Vũ Công Chấn, Hồ Văn Định và Hoàng Văn Đệ lập Hàn Lâm Viện.

Khai khẩn đất hoang. Sửa sang luật pháp. Thành lập một triều đình vững chắc. Tháng 11/1788 (tháng 10 ÂL.) ra lệnh cấm đánh bạc. Tổ chức lại quân đội. Bắt đầu đặt phủ binh. Lập sổ đinh. Lấy một nửa tráng đinh làm phủ binh, kết thành đội, thập (10), ngũ (5).

Theo chính sách “không việc thì đi cày ruộng, có việc thì làm binh” của nhà Đường (chứ không phải do Bá Đa Lộc nghĩ ra, như Faure viết sau này).

Tháng 11/1788 Võ Di Nguy được thăng chức quản Nội thuỷ thuỷ Trung thuyền.

Vua Quang Trung đại phá quân Thanh

Ở Bắc, Lê Chiêu Thống chạy sang Tầu cầu cứu. Vua Càn Long sai là Tôn Sĩ Nghị, tổng đốc Lưỡng Quảng chia quân làm bốn đạo tiến đánh Thăng Long, Ngô Văn Sở lui về Tam Điệp, cấp báo Nguyễn Huệ.

Ngày 22/12/1788 (25/11/Mậu Thân) Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, niên hiệu Quang Trung.

Tháng 2/1789 (tháng 1 Kỷ Dậu), Quang Trung đại phá quân Thanh: Sầm Nghi Đống chết. Tôn Sĩ Nghị chạy về Tầu. Lê Chiêu Thống chạy theo.

Quang Trung sai con là Quang Thùy và Võ Văn Dũng giữ Bắc Thành.

Quang Bàn giữ Thanh Hoá.

Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An, rồi trở về Thuận Hoá.

Quang Trung xây dựng kinh đô ở Nghệ An, đặt tên là Phượng Hoàng Trung Đô, đắp thành luỹ, đặt kho tàng, dùng trọng binh coi giữ.

Tóm tắt việc Bá Đa Lộc cầu viện Pháp

Như trên đã nói, theo Thực Lục, tháng 8/1783 (tháng 7 Quý Mão), nghe tin Bá Đa Lộc ở Chân Bôn (Chantabun, Xiêm), Nguyễn Ánh sai người đến mời, trao hoàng tử Cảnh, 3 tuổi, cùng với quốc ấn cho Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện. Nhưng Bá Đa Lộc còn ở lại trong vùng này suốt năm 1774. Đến khi Nguyễn Huệ đại phá quân Xiêm tháng 1-2/1785, Nguyễn Ánh thua to, bầy tôi chỉ còn lại 10 người, lúc đó mới khẩn cấp giục Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm và Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh (5 tuổi) sang Tây.

Cuối tháng 2/1785, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh tới Pondichéry (Ấn Độ).

Tháng 7/1786, Bá Đa Lộc từ Pondichéry đem hoàng tử Cảnh, 6 tuổi, đi Pháp. Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm, Hồ Văn Nghị trở về Vọng Các.

Tại Pháp, ngày 28/11/1787, Bá Đa Lộc ký với de Montmorin hiệp ước cầu viện Versailles.

Ngày 18/5/1788, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh từ Pháp về tới Pondichéry. Việc thi hành hiệp ước cầu viện gặp khó khăn vì Conway, toàn quyền Pháp ở Pondichéry, chống. Sau cùng chính vua Louis XVI, theo báo cáo của Conway, đổi ý, lệnh cho Conway không giúp Nguyễn Ánh.

Tháng 7/1789, Bá Đa Lộc trở về tay không với hoàng tử Cảnh, 9 tuổi. Vua sai Tôn Thất Hội đem binh thuyền ra cửa Cần Giờ đón.

Trong suốt thời gian này, Nguyễn Vương viết nhiều thư gửi Hội thừa sai Macao hỏi tin con, nhưng hầu như ông không nhận được tin tức gì cả.

Ở Pháp, ngày 14/7/1798, quân cách mạng phá ngục Bastille. Phe bảo hoàng trong đó có Hội thừa sai phải chạy sang Anh.

Nguyễn Vương thu phục Gia Định

Cuối năm 1788, Nguyễn Vương đã chiếm được Sài Gòn và phần lớn đất Gia Định nhưng Phạm Văn Tham vẫn còn cầm cự ở Vĩnh Long và An Giang.

Vương sai Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương họp nhau đánh Phạm Văn Tham ở Hổ Châu [An Giang]. Phạm Văn Tham rút về Ba Xắc [Ba Thắc, An Giang?]. Thế cùng, phải ra hàng.

Toàn bộ Gia Định về tay Nguyễn Ánh.

Tháng 4/1789 (tháng 3 ÂL.) xây hai thành Cá Dốc [Dốc Ngư] và Vàm Cỏ [Thảo Câu] là hai nơi xung yếu, cổ họng của Sài Gòn, sai Nguyễn Văn Thành trấn giữ.

Vương rất chú trọng đến Vệ Thần Sách (Công binh và Pháo binh): sai Tôn Thất Huyên cai quản các đội ban trực tiền vệ Thần sách dinh Trung quân; Tôn Thất Chương ban trực hậu, Phạm Văn Nhân ban trực tả, Tô Văn Đoài ban trực hữu.

Tháng 7/1789 (tháng 5 nhuận) Vương bàn định đánh Tây Sơn. Nhưng nghe tin Nguyễn Huệ ở Thuận Hoá đã đóng nhiều chiến hạm, đang định đánh vào Nam, lại thôi.

Bắt đầu đặt chức quan Điền tuấn (trông coi nông nghiệp), dùng 12 người trong Hàn Lâm Viện chế cáo (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, vv…) trông coi việc mở mang canh nông, khai phá đất hoang cho bốn dinh: Phiên Trấn (Gia Định), Trấn Biên (Biên Hoà), Vĩnh Trấn (Vĩnh Long), Trấn Định (Định Tường), khuyến khích dân trồng trọt, người nào không thích nghề nông thì vào phủ binh. Lập trường võ bị, chọn những người có khả năng chiến đấu trong quân ngũ, cho luyện tập trở thành quân tinh nhuệ.

Tháng 8-9/1789 (tháng 7 ÂL.) hàng tướng Phạm Văn Tham bị kết tội liên lạc với Nguyễn Huệ để khôi phục lại miền Nam, bị giết.

Tháng 9-10/1789 (tháng 8 ÂL.) sai đóng hơn 40 chiến thuyền lớn, hơn 100 thuyền đi biển.

Cải tổ nội các: Lập thêm bộ Lễ, Nguyễn Thái Nguyên coi, Nguyễn Bảo Trí, bộ Lại, Nguyễn Đô, bộ Hộ.

Tháng 11-12/1789 (tháng 10 ÂL.) đại duyệt binh tướng sĩ các dinh ở Đồng Tập Trận (ngoại ô Sài Gòn).

Chỉ định các tướng lãnh chỉ huy các đạo, các dinh, các chi… trong toàn bộ quân đội.

Sai dinh Trấn Biên mua đường cát, mỗi năm 10 vạn cân, có sẵn, để đổi cho người Tây Dương lấy đồ binh khí.

Cải tổ binh thuyền.

Ngày 22/4/1790 (ngày Kỷ sửu, 9/3 Canh Tuất), đắp thành đất Gia Định, Tôn Thất Hội trách nhiệm cùng với Trần Văn Học (Liệt truyện II, t. 77-282).

Nguyễn Vương mua súng đạn, đóng tầu, xây dựng thành quách

Tháng 5-6/1790 (tháng 4 ÂL.) Lê Văn Quân chủ trì bàn việc xuất quân, Nguyễn Văn Thành can không được. Nguyễn Vương sai Lê Văn Quân làm tư lệnh, Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành, tiên phong, tiến đánh Bình Thuận. Chiếm được.

Lê Văn Quân tiến đánh Diên Khánh, thua to, lui về giữ thành Hưng Phúc. Vua về Gia Định.

Tháng 6/1790, một số lính Pháp theo giúp Nguyễn Vương, được nhận chức cai đội. Hai năm sau nhiều người bỏ đi. Chỉ Chaigneau và Vannier ở lại đến đầu đời Minh Mạng.

Tháng 11/1790 (tháng 10 ÂL.) bắt đầu lập đồn điền, cấp trâu bò, điền khí và hạt giống, khai phá đất hoang. Đặt thái y viện. Dựng kho hoả dược. Tháng 12/1790 (tháng 11 ÂL.) sai Cai cơ Võ Di Nguy coi đóng một chiến thuyền lớn và 15 thuyền đi biển.

Tháng 1/1791 (tháng 12/ Canh Tuất) sửa đắp thành đất Gia Định. Sai Trần Vũ Khách đi Giang Lưu Ba (Jakarta, thủ đô Indonesia) tìm mua đồ binh khí.

Lập xưởng thuỷ sư, từ bờ sông Tân Bình đến bờ sông Bình Trị, trên ba dặm, thuyền đi biển, thuyền chiến (hình thức như thuyền buôn, không mui mà nhỏ) thuyền ô (sơn đen nên gọi là ô thuyền), thuyền son (sơn đỏ gọi là chu thuyền), thuyền lê (đầu đuôi thuyền đều chạm vẽ gọi là

lê thuyền), đều đậu ở đó.

Tháng 2/1791 (tháng 1 Tân Hợi) định lệ hàng năm duyệt binh.

Lê Văn Quân từ khi thua trận, cáo bệnh, vua vời không đến, bị đình thần kết án. Tự vận.

Tháng 3/1791 (tháng 2 ÂL.) nhân dịp người Bồ Đào Nha tên là Chu Di Nô Nhi đến buôn bán, Nguyễn Ánh gửi thư cho quốc vương Bồ mua binh khí (1 vạn cây súng chim, 2.000 cỗ súng gang, mỗi cỗ nặng 100 cân, 2.000 viên đạn).

Gián điệp qua lại luôn, tin tức Tây Sơn, không việc gì là không biết.

Ngày 25/5/1791 (23/4 Tân Hợi) Minh Mạng ra đời, con phi thứ hai Trần Thị, con gái tham tri bộ Lễ Trần Hưng Đạt. Sau này, Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Trương… sẽ là thầy dạy.

Đóng hơn 100 chiếc chiến thuyền.

Tháng 11/1791 (tháng 10 ÂL.) lập đền Hiển Trung, thờ các công thần, theo vua từ Vọng Các.

Năm Tân Hợi 1791 (không rõ tháng) Nguyễn Ánh bí mật sai người cầu Đặng Đức Siêu, cựu thần chúa Nguyễn, không ra giúp Tây Sơn. Siêu lẻn vào Gia Định, hiến kế đánh Tây Sơn, trở thành quân sư, luôn luôn bên ở mình Nguyễn Ánh. Tất cả những chiến dịch sau này, phần lớn do Đặng Đức Siêu làm cố vấn.

Tháng 2/1792 (tháng 1 Nhâm Tý) đóng năm hiệu thuyền Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến và Huyền Hạc.

Nguyễn Ánh sử dụng chiến thuật gió mùa: Hàng năm, khi gió nồm thổi, thuỷ quân thuận chiều gió ra đánh, hết gió quay về.

Sai đắp thành Mỹ Tho, góc thành đắp như dáng hoa mai, chu vi 499 trượng.

Hai bên sửa soạn chiến tranh

Tháng 4-5/1792 (tháng 3 ÂL.) vua Xiêm viết thư muốn “liên kết” để đánh Quang Trung. Bởi vì Quang Trung đã đem quân đánh Vạn Tượng, quân Xiêm thua to.

Nguyễn Ánh hay tin Nguyễn Huệ đã sửa soạn hai, ba mươi vạn binh thủy bộ để đánh Gia Định. Quân bộ qua Lào đánh Nam Vang, tiến vào sau lưng Sài Gòn. Thuỷ quân vào Côn Lôn, chiếm Hà Tiên, rồi theo đường Long Xuyên, Kiên Giang đánh mặt trước Sài Gòn.

Tháng 5-6/1792 (tháng 4 ÂL.), Nguyễn Ánh tổ chức phòng vệ.

Tháng 6/1792, Quang Trung đem 30.000 đánh Lào rồi xuống Cao Mên, nhưng lại rút về (thư của LM Le Labousse, 16/6/1792, Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine III, t. 223).

Trong lúc tình hình sôi bỏng, những người lính Pháp theo giúp từ 1790 chuẩn bị rút lui.

Tháng 6/1792, phần lớn những người Pháp đều bỏ đi hoặc bị đuổi vì kỷ luật. Bá Đa Lộc cũng muốn xin về. [Thư của Lavoué gửi Létondal, viết tại Lái Thiêu ngày 16/6/1792. Thư Le Labousse gửi Létondal, viết từ biên giới Cambodge ngày 17/6/1792. Thư Bá Đa Lộc gửi Boiret ngày 20/6/1792 (Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine III, t. 295-297)].

Tháng 6-7/1792 (tháng 5 ÂL.), Nguyễn Huệ liên kết với 40 thuyền Tề Ngôi (giặc biển, người Tầu) tấn công miền Bình Khang, Bình Thuận.

Tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL.) cai đội Ôlivi (Olivier de Puymanel) được thăng chức Vệ Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách.

Trận Thị Nại 1792

Được tin gián điệp cấp báo Nguyễn Nhạc đóng nhiều thuyền chiến đậu ở cửa Thị Nại, sửa soạn chinh phạt Gia Định, Nguyễn Ánh quyết định đánh trước.

Lệnh cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Võ chuẩn bị lương thực khí giới hành quân. Định ngày thử chiến hạm ở biển (thuyền đại hiệu và thuyền ô sai, 128 chiếc).

Để Tôn Thất Huy, Võ Tánh và Tống Phước Đạm giữ Sài Gòn.

Biết Thị Nại không phòng bị, Nguyễn Ánh, xuất quân từ cửa Cần Giờ, gặp gió nam thổi mạnh.

Các tướng thống lĩnh: Quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành, Trực tả Phạm Văn Nhân; giám quân Trung quân Nguyễn Văn Trương hộ giá, tiến thẳng tới Thị Nại.

Sai quân tinh nhuệ phóng hoả đốt thuỷ trại.

Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành đi thuyền Long [Long Phi] và thuyền Phụng [Phượng Phi], đánh thẳng vào. Đô đốc Thành bỏ chạy. Quân Nguyễn chiếm được 5 thuyền lớn, 30 thuyền đi biển, 40 thuyền sai, ba chiếc thuyền của Tề Ngôi.

Trận này chỉ có 10 ngày, chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Ánh, từ khi về Gia Định, khiến Quang Trung nổi giận. Hịch Quang Trung (sẽ đăng trong chương sau) chỉ trích sự thua trận này.

Ngày 27/8/1792, Quang Trung truyền hịch cho quan, quân, dân hai vùng Quảng Ngãi và Quy Nhơn: sẽ san bằng Gia Định.

Chưa kịp tiến quân, Quang Trung băng hà ngày 16/9/1792.

Quang Toản, 10 tuổi, lên ngôi, hiệu Cảnh Thịnh. Cậu ruột là thái sư Bùi Đắc Tuyên làm phụ chính.

Ở Pháp, vua Louis XVI và hoàng hậu Marie-Antoinette lên đoạn đầu đài. Nước Pháp rơi vào thời đại Kinh Hoàng (La Terreur). Số người bị giết ước lượng 100.000, trong đó có khoảng 17.000 bị lên máy chém.

Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn lần thứ nhất, 1793

Sau khi Nguyễn Huệ mất, Nguyễn Ánh lại được tin triều đình Quang Toản và Nguyễn Nhạc nghi kỵ nhau, bèn quyết định đánh Quy Nhơn.

Thuỷ binh là điểm cốt yếu của quân Nguyễn.

Tháng 2-3/1793 (tháng 1 Quý Sửu) Nguyễn Ánh sai đóng thêm các thuyền đại hiệu (tầu chiến): Long ngự, Long thượng, Long hưng, Long Phi, Bằng phi, Phượng phi, Hồng phi, Loan phi, Ưng phi. (Chắc là sửa lại các tầu Phượng Phi và Bằng Phi, vì đã có từ năm 1785).

Tháng 3-4/1793 (tháng 2 ÂL.) sai Phạm Văn Nhân làm phó tướng Tả quân kiêm Tri Tàu vụ.

Tháng 4-5/1793 (tháng 3 ÂL.) lập hoàng tử Cảnh (13 tuổi) làm Đông Cung.

Dựng nhà Thái học. Đặt một đông cung phụ đạo [Bá Đa Lộc] và 2 đông cung thị giảng [Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định].

Tháng 5-6/1793 (tháng 4 ÂL.) đem đại binh đánh Quy Nhơn, để Đông cung ở lại giữ Gia Định cùng phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân và Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm.

Bộ binh do Tôn Thất Hội thống lãnh, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành trực thuộc,

tiến đánh Phan Rí.

Cai cơ trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Văn Hào; Chưởng cơ đạo Ba Phủ là Cổ và điều khiển Cường, đem quân Man (người Thượng) theo đường bộ tiến đánh Phan Rang.

Nguyễn Ánh xuất quân ra cửa Cần Giờ. Nguyễn Văn Trương và Võ Di Nguy tiên phong, Võ Tánh hộ giá. Phan Thiên Phúc, bộ Hộ và tham tri Nguyễn Đức Chí trông thuyền lương.

Tháng 6-7 (tháng 5 ÂL.) Nguyễn Ánh đến Phan Rang, sai Nguyễn Kế Nhuận đánh bảo [bảo là thành đất, rất vững] Mai Nương, quân Tây Sơn bỏ chạy.

Nguyễn Ánh đến Nha Trang, sai Vũ Văn Đắc và Nguyễn Văn Lượng đánh bảo Hoa Bông, Tây Sơn bỏ chạy, chiếm được phủ Diên Khánh. Nguyễn Ánh đóng ở vụng Hòn Khói. Võ Tánh chiếm phủ Bình Khang.

Bộ binh của Tôn Thất Hội đánh bảo Phan Rí, chiếm được Bình Thuận.

Thuyền Nguyễn Ánh đến cửa Xuân Đài. Sai Võ Tánh đánh bảo La Thai [La Hai], Phạm Văn Điềm thua chạy. Võ Tánh chiếm được Phú Yên.

Nguyễn Ánh tiến đến Thị Nại, Võ Tánh chiếm các bảo ở chợ Thị Nại.

Tháng 7-8 (tháng 6 ÂL.) Võ Tánh thắng trận cầu Tân Hội, tiến đánh cánh đồng Bình Thịnh.

Nguyễn Nhạc sai con là Nguyễn Bảo đem quân tinh nhuệ và voi đực ra tiếp chiến.

Bộ binh Tôn Thất Hội cũng vừa tới.

Nguyễn Bảo đặt liền đồn trại từ Thổ Sơn đến Úc Sơn để chống cự.

Nguyễn Ánh dặn Tôn Thất Hội giả vờ tấn công từ gò Phú Quý, rồi đến đêm cùng Nguyễn Văn Thành lặng lẽ vượt Kỳ Sơn, hợp với Võ Tánh đánh sau lưng.

Nguyễn Bảo không ngờ, quân và voi toán loạn.

Nguyễn Ánh sai Vũ Văn Lượng đánh bảo Úc Sơn, phóng lửa đốt trại. Lê Văn Duyệt đem quân trên núi đánh xuống, quân Tây Sơn thua to.

Nguyễn Bảo và Đào Văn Hổ phải lui quân về thành Quy Nhơn.

Nguyễn Nhạc sai đô đốc Đẩu đem 4000 quân tinh nhuệ giữ bảo Khố Sơn, ở núi Càn Dương, phủ mới của Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Ánh thân đốc cấm binh đi đánh, nhưng không thể tiến được.

Bèn sai Nguyễn Đức Xuyên tới trước thành khuyến dụ, quân lính nghe theo không bắn nữa, nhờ Trần Công Hiến làm nội ứng, gây loạn trong thành, mới hạ được.

Nguyễn Ánh tập hợp các đạo quân của Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành vây Quy Nhơn, hạ lệnh dùng “hoả xa đại bác” (đại bác của người Tây có bánh xe di động), quân trong thành còn 10.000, Nguyễn Nhạc cố giữ, không thể hạ nổi.

Tháng 9/1793 (tháng 8 ÂL.), Nguyễn Nhạc cầu cứu Phú Xuân, triều đình Cảnh Thịnh (quyền hành trong tay Bùi Đắc Tuyên vì Quang Toản còn bé) cử đại binh do Thái uý Nguyễn Văn Hưng (hay Phạm Công Hưng), hộ giá Nguyễn Văn Huấn, đại tư lệ Lê Trung, đại tư mã Ngô Văn Sở, đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi, cùng đô đốc Hổ và chưởng cơ Thiêm đem hơn 30 chiến thuyền, đến cứu viện.

Nguyễn Ánh liệu đánh không lại, phải rút quân về Diên Khánh.

Nguyễn Ánh đắp thành Diên Khánh, vị trí điạ đầu

Tháng 10/1793 (tháng 9 ÂL.), Thực Lục ghi: “Ngự giá về Diên Khánh. Thấy thành đất Hoa Bông địa thế tốt, đánh hay giữ đều tiện, bèn sai các quân và phát 3000 dân Bình Thuận, 1000 dân Thuận Thành khởi đắp trọn một tháng thì thành xong, gọi là Diên Khánh (tức tỉnh lỵ Khánh Hoà ngày nay. Thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một cửa, tây và bắc đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất)”. (Thực Lục I, t. 299).

Hai người trực tiếp xây thành được ghi trong Liệt Truyện:

[Tôn Thất] Hội cùng đạo binh họp lại bao vây [Quy Nhơn], giặc có quân cứu viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp Diên Khánh.”(Liệt Truyện II, t. 78).

“Mùa hạ năm Quý Sửu [1793, Vũ Viết Bảo] theo đi đánh Quy Nhơn, đến khi về, đắp thành Diên Khánh (…) Năm [Gia Long] thứ tư [Bảo] đem quân cùng với các quân sửa đắp kinh thành [Huế]” (Liệt truyện II, t. 321).

Diên Khánh sẽ là nơi xẩy ra những đợt xung phong khốc liệt khi Trần Quang Diệu vây đánh thành. Vị trí quan trọng và sự vững bền của thành Diên Khánh, sẽ được phía Pháp nhận công là thành này do Olivier de Puymanel xây (sẽ nói đến sau).

Trong thành Quy Nhơn, các tướng Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Văn Huấn, sau khi Nguyễn Ánh rút, bức bách Nguyễn Nhạc. Vua Thái Đức uất ức mà chết.

Triều đình Cảnh Thịnh phong Nguyễn Bảo, con Nguyễn Nhạc, làm Hiếu công, ăn lộc một huyện, Nguyễn Bảo uất hận. Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ thành Quy Nhơn.

Tháng 11/1793 (tháng 10 ÂL.) Nguyễn Ánh trở về Gia định. Để Nguyễn Văn Thành giữ Diên Khánh. Đổi Vệ Thần Sách thành Quân Thần Sách, tức là mở lớn hơn.

Tháng 12/1793, sai cai đội Quàng Nói Vè, đội trưởng Pa Đơ Chê (đều người Tây) sang thành Cô Á [Goa, Ấn Độ] và xứ Mã La Kha [Malacca] để tìm mua đồ binh khí.

Là người thích xây dựng, Nguyễn Ánh tự học, bên cạnh lại có những chuyên viên kiến trúc như Tôn Thất Hội, Trần Văn Học, Vũ Viết Bảo… những người đóng tầu giỏi như Đỗ Thanh Nhơn, Võ Di Nguy… nhất là từ năm 1793 (không rõ tháng), Nguyễn Ánh có thêm một chuyên gia mới, sẽ trở thành bộ trưởng bộ Công chánh sau này: Trần Văn Thái, cai bạ kiêm bộ Công của Tây Sơn về quy thuận, ông là người giỏi việc đóng thuyền. Mùa thu Bính Thìn (1796), ông cùng Võ Di Nguy, kiêm quản cả doanh ngũ thuỷ “phàm chỉ bảo cách thức đóng các thuyền đều do ở tay Thái cả”. Trần Văn Thái giữ bộ Công, đến năm Gia Long thứ 8, đổi thành Công bộ Thượng thư, thống quản thuỷ quân đến khi mất. (Liệt truyện II, t. 474).

Tháng 12/1793, Nguyễn Ánh triệu Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Theo lệ các chúa Nguyễn, Vương bắt con phải tập việc cai trị và giữ thành, nên sai Đông Cung Cảnh (13 tuổi) trấn Diên Khánh, vị trí địa đầu chống với Tây Sơn. Vương sai các thày dạy Bá Đa Lộc, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu và các tướng: Phạm Văn Nhân, Tống Phước Đạm, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành hộ tống Đông cung. Đến tháng 2/1794, Chưởng dinh hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức cũng xin ở lại Diên Khánh để giúp Đông cung. Nguyễn Ánh sai quân đóng thêm thuyền chiến và đúc thêm binh khí, lấy cai đội Nguyễn Văn Khiêm làm phó Vệ uý vệ túc trực quân Thần Sách, sai đến Diên Khánh phò Đông Cung. Như vậy, hoàng tử Cảnh ở Diên Khánh với trọn bộ tổng tư lệnh quân đội và các quan đại thần là thầy dạy học. Những luận điệu sau này cho rằng Bá Đa Lộc chỉ huy và giữ thành Diên Khánh chỉ là ảo tưởng.

Trần Quang Diệu vây thành Diên Khánh

Thành Diên Khánh sẽ là nơi xẩy ra chiến trận khốc liệt giữa hai bên.

Tháng 4/1794 (tháng 3 ÂL.) triều đình Cảnh Thịnh (tức thái sư Bùi Đắc Tuyên vì Cảnh Thịnh còn nhỏ) sai thái uý Nguyễn Văn Hưng và tổng quản Trần Quang Diệu đem quân thủy bộ vào Quy Nhơn.

Được gián điệp báo tin, Nguyễn Ánh truyền cho Đông Cung phòng bị. Hoàng tử Cảnh tâu lương ở Diên Khánh chỉ đủ ăn một tháng. Vua sai Nguyễn Văn Thành chở lương ra cứu ứng, đường thuỷ bị ngược gió, phải sai Nguyễn Văn Tánh, lưu thủ Bình Thuận, chở 3000 phương gạo đi đường bộ suốt ngày đêm ra cứu.

Thái úy Tây Sơn Nguyễn Văn Hưng đem 40.000 quân bộ đánh Phú Yên, quân Nguyễn phải rút lui.

Tháng 5/1794 (tháng 4 ÂL.) Trần Quang Diệu đem thủy binh vào cửa biển Nha Trang, bộ binh của Nguyễn Văn Hưng cũng tiến đến Bình Khang, họp quân ba mặt vây thành Diên Khánh. Vây mấy ngày liền, súng trong thành bắn ra như mưa, quân Tây Sơn bị thương rất nhiều nhưng thành kiên cố không thể tiến vào được.

Nguyễn Ánh thân chinh cử thuỷ binh giải vây: Tôn Thất Hội tiên phong, Võ Tánh tập hậu, Võ Di Nguy, hộ giá. Trần Đức Khoan, Nguyễn Văn Mỹ và Nguyễn Kỳ Kế coi lương.

Nghe tin đại binh Nguyễn Ánh đến, Trần Quang Diệu rút về Quy Nhơn, Nguyễn Văn Hưng lui về Phú Yên.

Tháng 6/1794 (tháng 5 ÂL.), quân Nguyễn chiếm lại được một số thành và đất đã mất: Tiêu Cơ, Mai Nương (Phan Rang), Phú Yên.

Tháng 7/1794 (tháng 6 ÂL.) Vương lại sai Vệ Uý Phan Văn Triệu, Ôlivi (Olivier de Puymanel), Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý… cùng bộ thuộc, đến giúp Đông Cung.

Nguyễn Ánh thấy chưa thể đánh được thủy binh của Tây Sơn, bèn sai Tôn Thất Hội và Võ Tánh đem tất cả thuyền về đậu ở cửa Xuân Đài.

Tháng 7-8/1794 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Ánh rút quân về Diên Khánh.

Sai sửa sang đắp lại thành Diên Khánh.

Tháng 8-9/1794 (tháng 8 ÂL.), cho Đông Cung trở về Gia Định.

Tháng 9-10/1794 (tháng 9 ÂL.) Vương cũng đem quân về Gia Định.

Để Võ Tánh ở lại giữ Diên Khánh.

Trần Quang Diệu vây Diên Khánh lần thứ nhì

Tháng 10-11/1794 (tháng 10 ÂL.) Trần Quang Diệu và Lê Trung lại đem quân thủy bộ đánh Phú Yên. Nguyễn Long và Võ Văn Lượng lui về giữ Bình Khang. Võ Tánh nhận trấn giữ cả hai mặt. Tháng 11-12/1794 (tháng 11 ÂL.) Vương ban thưởng cho Võ Tánh và quân sĩ.

Vương sửa đắp quách ở ngoài bốn mặt thành Gia Định.

Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm mất, ông đã có công lớn giúp Đông Cung giữ thành Diên Khánh năm 1793.

Vương bắt đầu đặt chức Giám thành sứ (cai quản việc phòng giữ kinh thành).

Tây Sơn đánh Bình Khang. Nguyễn Ánh biết chủ ý Tây Sơn là đánh Diên Khánh, dặn Võ Tánh phòng thủ, sai Nguyễn Văn Tánh từ Bình Thuận đem quân tiếp viện Diên Khánh, rồi sai Nguyễn Huỳnh Đức điều bộ binh cùng Nguyễn Văn Thành làm phó, tiến ra Phan Rang.

Trần Quang Diệu trực chỉ đánh Diên Khánh. Lê Trung đánh Du Lai chặn đường tiếp viện của quân Nguyễn từ Bình Thuận.

Tháng 1-2/1795 (tháng 12 Giáp Dần), Trần Quang Diệu cắt đứt đường lấy nước vào thành Diên Khánh. Võ Tánh đánh được. Trần Quang Diệu sai quân lăn sát trèo lên thành, bị súng bắn chết rất nhiều, sai đắp luỹ cao vây bốn mặt thành. Võ Tánh cố giữ. Diệu đánh rất gấp.

Trong thành thiếu muối, tướng sĩ ăn uống rất khổ. Nguyễn Ánh gửi thư dặn Tánh kiên quyết giữ, đợi mình chuẩn bị xong ghe thuyền sẽ tiến quân tiếp viện.

Sai TônThất Hội đóng quân ở Bà Rịa để điều khiển các đạo quân chống giữ.

Lê Trung đánh Phan Rí. Nguyễn Huỳnh Đức lui về Phố Hài (huyện Tuy Lý, Bình Thuận)

Nguyễn Ánh ra lệnh cho Nguyễn Huỳnh Đức về giữ Ma Li (huyện Yên Phước, Bình Thuận), Còn Nguyễn Văn Thành và thuộc bộ phải ở lại Phố Hài để chống địch.

Tháng 2-3/1795 (tháng 1 Ất Mão) Nguyễn Ánh sai Đặng Trần Thường, tán lý binh vụ đến Bà Rịa họp cùng Chưởng tiền quân Tôn Thất Hội để trù hoạch chiến lược.

Vương sai Tôn Thất Hội đem nghìn quân chở súng đạn đến Phố Hài và Phan Thiết, họp cùng các đạo tiên phong, ngăn quân địch.

Lê Trung đánh Phố Hài. Nguyễn Văn Thành chạy về Bà Rịa.

Nguyễn Ánh hay tin, lập tức sai giám thành sứ Tô Văn Đoài bắt Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành về Gia Định, lột hết quân đội, giao cho Tôn Thất Hội thống lãnh giữ Ma Li. Rồi gửi mật dụ cho Võ Tánh: “Đợi thuỷ sư tiến đến Cù Huân (gần huyện Vĩnh Xương, Khánh Hoà) thì sẽ đánh úp, một trận có thể thành công”.

Tháng 3-4/1795 (tháng 2 ÂL.) sai Vệ uý ban trực tuyển phong hậu quân Thần sách là Ôlivi (Olivier de Puymanel) sang Hồng Mao (Ấn độ) mua binh khí.

Để Đông cung trấn giữ Gia Định, có Tả quân Phạm Văn Nhân, Giám thành sứ Tô Văn Đoài, Lễ bộ Nguyễn Đô, Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên, Hộ bộ Phan Thiên Phúc, Hình bộ Nguyễn Văn Nghị, trợ giúp.

Nguyễn Ánh thân chinh đem thuỷ binh cứu Diên Khánh.

Nguyễn Văn Trương thống lãnh thuỷ binh Tiền, Hậu, Trung quân. Tôn Thất Hội thống lãnh bộ binh tiến đánh Phan Thiết. Trương Phúc Luật điều khiển thủy binh các vệ tiến đánh kho Phan Rang, cướp gạo.

Thuỷ binh Tây Sơn từ Vũng Diên đến, Tống Viết Phước phá được, chém đầu đô đốc Nguyễn Văn Sĩ, được thăng chức Chưởng Cơ.

Tháng 4-5/1795 (tháng 3 ÂL.) Vương tha tội và phục chúc cho Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành: sai Đức đi theo Tôn Thất Hội, Thành ngự giá.

Nguyễn Vương ra cửa biển Cần Giờ, Tôn Thất Chương, Trương Phúc Luật đi tiên phong, tới Cam Ranh, quân Tây Sơn bỏ chạy.

Vương đến cửa Cù Huân. Trần Quang Diệu, Lê Văn Lợi, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Thận, Trần Viết Kết vẫn vây thành Diên Khánh.

Sai Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt lên bờ, đóng đồn, bắn đại bác để trong thành biết.

Còn đại quân thẳng tiến đến Chử Châu (Phú Yên), xem xét tình hình, chia quân chặn đường về của Tây Sơn, rồi Vương kéo về qua vụng Hòn Khói.

Sai Nguyễn Văn Đắc đánh bảo Lập Trường, chém được đô đốc Gia và binh bộ Tiến, chiếm được Bình Khang. Đắc được phong Chưởng Cơ. Nguyễn Ánh về đóng ở Cù Huân.

Trần Quang Diệu đặt nhiều đồn trại ở Khố Sơn chống lại.

Lê Trung bắt đầu thiếu lương thực, muốn lui giữ Phan Rang, báo tin cho Trần Quang Diệu, Nguyễn Ánh bắt được, liền sai Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Công Thái ngầm qua sông Phan Rang đặt đồn ngăn chặn, Nguyễn Văn Đắc tiến đánh kho lương Mai Nương, Tây sơn đem quân và voi đến, quân Nguyễn phải lui về Ba Ngòi.

Tôn Thất Hội đóng quân ở sông Luỹ (Bình Thuận) đánh nhau với Lê Trung, thắng thế. Lê Trung lui quân về sông Cạn (Bình Thuận).

Nguyễn Ánh tập trung quân đội giải vây Diên Khánh.

Tháng 6-7/1795 (tháng 5 ÂL.), Võ Tánh đang đêm mở cửa thành đánh ra, đốt trại của Lê Văn Lợi đặt bảo để giữ từ núi Sĩ Lâm đến cầu Hoa Bông.

Phú Xuân có loạn, Trần Quang Diệu rút quân về

Nguyên do: Quang Toản còn nhỏ, quyền hành trong tay thái sư Bùi Đắc Tuyên, Tuyên sai Ngô Văn Sở ra trấn Bắc Thành, thay Võ Văn Dũng. Võ Văn Dũng từ Bắc Thành về, gặp Trần Văn Kỷ (quân sư của Quang Trung ngày trước, bị Tuyên đầy ra trạm Mỹ Xuyên), kể tội Tuyên chuyên quyền. Dũng về Phú Xuân, mưu cùng Nguyễn Văn Hưng và Nguyễn Văn Huấn, giết Bùi Đắc Tuyên, triệu con là Đắc Thuận ở Quy Nhơn và Ngô Văn Sở ở Bắc về, giết cả. Trần Văn Kỷ trở lại làm phụ chính.

Tháng 8-9/1795 (tháng 7 ÂL.) Trần Quang Diệu vẫn giữ Khố Sơn, đồn luỹ vững không thể phá được. Nhờ lính tuần Tây Sơn là Nguyễn Danh Nho đầu hàng, dẫn đường tắt cho quân Nguyễn, đang đêm bò lên đánh úp, phóng lửa đốt vào, phá liền 12 đồn đất của Tây Sơn.

Nguyễn Ánh tiến đánh Chử Châu (Phú Yên). Trần Quang Diệu rút về Quy Nhơn.

Nguyễn Ánh vào thành Diên Khánh.

Trần Quang Diệu (vợ ông là Bùi Thị Xuân, cháu họ Bùi Đắc Tuyên) đem quân về Phú Xuân, “hỏi tội” vua tại sao giết hại đình thần. Quang Toản phải dàn xếp, phong Trần Quang Diệu làm Thiếu Phó, Nguyễn Văn Huấn làm Thiếu Bảo, Võ Văn Dũng làm Tư Đồ, Nguyễn Văn Danh làm Tư Mã: đó là tứ trụ triều đình.

Tháng 9-10/1795 (tháng 8 ÂL.) Nguyễn Ánh sửa lại thành Diên Khánh, làm thêm kho tàng. Để Tôn Thất Hội ở lại trấn giữ.

Tháng 10-11/1795 (tháng 9 ÂL.) Nguyễn Ánh về Gia Định.

Tháng 11-12/1795 (tháng 10 ÂL.) sai phó tướng tả quân Phạm Văn Nhân làm phụ đạo Đông Cung. Việc này có thể là hệ quả của việc: Trần Đại Luật dâng sớ xin chém đầu Bá Đa Lộc vì “cậy công bảo hộ đông cung, có ý kiêu ngạo”.

Phong cho Võ Tánh làm Khâm sai chưởng hậu quân dinh Bình Tây đại Tướng quân.

Ở Pháp, thành lập Chấp Chánh Hội Nghị (Directoire) do 5 hội viên cầm quyền (26/10/1795- 9/11/1799).

Kể từ tháng 9/1795 đến tháng 5/1797, Nguyễn Vương giữ từ Bình Khang [tức Khánh Hoà] vào Nam. Cảnh Thịnh giữ từ Bình Định ra Bắc.

Vua Cảnh Thịnh (Quang Toản) năm 1795, mới 12 tuổi, dưới quyền phụ chính của Trần Văn Kỷ, chia quân phòng bị chặt chẽ từ Quảng Nam đến Quy Nhơn.

Nguyễn Vương, sau Nguyễn Huệ, chỉ sợ có Trần Quang Diệu.

Vì biến cố Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu về Phú Xuân, sau đo các tướng trong triều dình Cảnh Thịnh tranh chấp nhau, nên Nguyễn Ánh rảnh rang trong gần hai năm không có chiến tranh, ông sửa sang việc nội trị và binh bị ở Gia Định.

Tháng 1-2/1796 (tháng 12/Ất Mão) lập Hàn Lâm Viện thị học.

Sai đóng 15 chiến thuyền lớn, hiệu Gia: Gia thiên, Gia địa…

Tháng 4-5/1796 (tháng 3/Bính Thìn) mở khoa thi, lấy 273 người đỗ. Cải tổ binh bị.

Tháng 7/1796 (tháng 6 ÂL.) triệu Tôn Thất Hội ở Diên Khánh về. Sai Nguyễn Huỳnh Đức Đặng Trần Thường trấn Diên Khánh cùng Phó tướng Tả quân Võ Văn Lượng.

Tháng 8/1796 (tháng 7 ÂL.) đặt thêm 5 dinh thuỷ quân.

Tháng 2/1797 (tháng 1/Đinh Tỵ), tăng trưởng quân Thần Sách, đặt vệ Diệu Võ quân Thần Sách, bổ Lê Văn Duyệt làm Thuộc nội Vệ Uý vệ Diệu Võ.

Bàn việc quân sự với vua, Duyệt nói: Nguyễn Văn Thành là người mưu mà ít dũng, Tống Viết Phước dũng mà ít mưu, duy có Tôn Thất Hội thì trí dũng kiêm toàn, thực là tướng giỏi. Vua cho là phải.

Vương lại sai Hoàng Trung Đồng và La Á Lục chia giữ 19 thuyền đại hiệu (Long Ngự, Long Hưng, Long Thượng, Long Đại, Long Nhất, Long Nhị, Long Tam, Phượng Đại, Phượng Nhị, Hồng Đại, Hồng Nhị, Hồng Tam, Loan Đại, Loan Nhất, Loan Nhị, Bằng Đại, Bằng Nhất, Bằng Nhị, Bằng Tam) (Thục Lục, I, t. 347).

19 thuyền “đại hiệu” tức là tầu chiến “hạng nặng” để phân biệt với các thuyền hiệuPhượng Phi, Long Phi và Bằng Phi, chỉ là thuyền chiến thường do Vannier, Chaigneau và de Forcanz cai quản. Điều này chứng tỏ người Pháp không phải là những người “duy nhất” biết điều khiển tầu chiến bọc đồng theo kiểu Tây phương, như nhiều người lầm tưởng.

Tháng 3/1797 (tháng 2 ÂL.), Phó tướng Tả quân Võ Văn Lượng chết; sai Nguyễn Văn Thành thay thế. Để củng cố lực lượng cho Đông Cung, lúc đó đã 17 tuổi, phải làm tư lệnh, Vương bổ Nguyễn Văn Thành và Phạm Văn Nhân phò tá.

Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhì, 1797

Tháng 5/1797 (tháng 4/Đinh Tỵ) Nguyễn Vương đánh Qui Nhơn, đem theo Đông Cung Cảnh (17 tuổi). Sai các tướng Võ Bá Diên, Phạm Văn Nhân và Nguyễn Công Thái phò Đông Cung.

Tôn Thất Hội trấn giữ Gia Định. Nguyễn Kỳ Kế và Nguyễn Văn Phú coi lương.

Thuyền Vương đến cửa Cù Huân [Khánh Hoà], Nguyễn Huỳnh Đức hộ giá.

Để Nguyễn Văn Tánh, Nguyễn Văn Lợi giữ thành Diên Khánh.

Sai Nguyễn Văn Trương đem binh thuyền tiến đánh đô đốc Thiêm ở Tiên Châu [Phú Yên], thắng; đánh đô đốc Tính ở Đạm Thuỷ [Bình Định], bắt được 6 chiếc thuyền.

Sai Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành đem bộ binh đánh chợ Hội An [Phú Yên], phá được đồn, đô đốc Hiếu lui về La Thai [Phú Yên].

Thuyền Vương tiến thẳng đến cửa Thị Nại, đánh nhau với Tư lệ Lê Trung, bắt được nhiều thuyền ghe súng ống, Lê Trung phải rút về Trà Khúc [Quảng Ngãi].

Tháng 5-6/1797 (tháng 5 ÂL.) Vương thấy Quy Nhơn phòng bị kỹ, khó đánh, bèn quyết định đem 100 chiến thuyền ra đánh Đà Nẵng.

Mặt trận Quảng Nam, tháng 5-6-7/1797

Đại binh Nguyễn Vương tiến đến Đà Nẵng, Thống lĩnh Tây Sơn Nguyễn Văn Chân thu hết thuyền vào trong vịnh và Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn đóng quân hai bên bờ vịnh, chống lại. Hai bên giao chiến hai lần không phân thắng bại.

Vương sai Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Văn Tứ, Trần Văn Búa, đi về phía Cu Đê [phiá bắc huyện Hoà Vang] đến cửa ải Hải Vân, đặt đồn ở chỗ hiểm.

Cảnh Thịnh giao cho Trần Quang Diệu giữ cửa Eo [cửa Thuận An] và sai đô đốc Lê Văn An đem quân Thuận Hoá vào cứu Quảng Nam.

Nguyễn Vương luận rằng hiện nay Tây Sơn dồn hết lực lượng vào Đà Nẵng, thì Chiêm dinh [tức dinh Quảng Nam, ở xã Cần Húc, huyện Diên Phước] sẽ không phòng bị, bèn sai Đông Cung đem quân vào cửa biển Đại Chiêm [Hội An], đánh lấy Chiêm dinh và gọi Võ Tánh ở Phú Yên ra họp với quân của Cảnh.

Đông Cung chiếm được chợ Đông An ở Hội An, tiến đến Chiêm dinh, chia đặt đồn sở để giữ.

Võ Tánh đến Đại Chiêm đánh nhau với đô đốc Nguyễn Văn Ngũ và thuyền của Tề Ngôi (giặc biển theo Tây Sơn), thắng trận, thu được 30 thuyền chiến.

Ở mặt trận Bình Khang [tức Khánh Hoà], tháng 5-6/1797, Tư lệ Lê Trung đem quân tiến đánh bảo (tức là đồn đất) Hội An [Phú Yên]. Nguyễn Ánh hay tin, lập tức sai Nguyễn Văn Thành đem quân triệt thoái về Bình Khang.

Tại mặt trận Quảng Nam, tháng 6-7/1797 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Văn Trương đón đánh viện quân của Lê Văn An từ Thuận Hoá ra, ở gò Phú Gia. Lê Văn An lui quân về Cu Thai. Võ Tánh đánh nhau với tiết độ Nguyễn Văn Giáp ở Mỹ Khê, có tham tri bộ binh Hồ Văn Định người Mỹ Khê hướng dẫn.

Đông cung Cảnh thắng trận La Qua [huyện Diên Phúc] vua mật cho Phạm Văn Nhân giữ cửa biển Đại Chiêm, Võ Bá Diên theo Đông cung đóng đồn ở Phú Chiêm, Nguyễn Công Thái đóng đồn ở núi Tam Thai [tức Ngũ Hành Sơn], chờ chỉ thị đánh úp.

Vương lại sai Phó vệ uý vệ Túc trực Nguyễn Văn Khiêm (phụ tá Đông cung đi đánh Đà Nẵng) và thuộc nội vệ uý ÔLiVi (Olivier de Puymanel) đến tấn biển Đà Nẵng [chỗ hai dòng sông Cẩm Lệ và Vĩnh Điện chẩy ra biển], đóng thuyền sam bản đánh hoả công, rồi chọn quân cảm tử cưỡi thuyền vào đốt thuyền địch ở vịnh Đà Nẵng.

Thống lĩnh Tây Sơn Nguyễn Văn Chân và Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn, một mặt cố giữ Đà Nẵng, một mặt xin cầu viện Quy Nhơn.

Tư lệ Lê Trung, ở Trà Khúc, sai đại đô đốc Lê Chất, đô đốc Đoàn Văn Cát, đô đốc Nguyễn Văn Xuân và đô đốc Hàn đem 2000 quân và 40 thớt voi đến cứu viện, giao tranh nhiều trận, quân Nguyễn chiếm lợi thế giết được nhiều voi Tây Sơn, đô đốc Hàn tử trận.

Đô đốc Tây Sơn Lê Văn An đánh bảo Trạm Dã [huyện Hoà Vang Quảng Nam] bị Nguyễn Văn Thịnh đẩy lui.

Nhưng quân Nguyễn bị thiếu lương thực. Nguyễn Ánh bèn sai Gia Định chở gạo lương tiếp viện đến Cù Huân [Khánh Hoà], rồi Trương Phúc Luật từ Cù Huân, sẽ đem phân phát cho các quân thứ.

Tháng 7-8/1797 (tháng 7 ÂL.), Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường tiến đánh Phú Yên. Thành sợ không giữ được, không muốn đánh, Vương không cho.

Nguyễn Ánh mật sai người dụ Nguyễn Bảo [con Nguyễn Nhạc] nếu giết được Tư lệ Lê Trung, thì sẽ được hưởng khoan hồng, không bị giết.

Thuyền lương của Trương Phúc Luật bị ngược gió, lại bị cướp biển chận, tiến rất chậm. Không đủ lương thực, Nguyễn Ánh phải ra lệnh cho các tướng rút quân về.

Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường chiếm được các bảo (đồn đất) Hội An và La Thai ở Phú Yên, cũng được lệnh bỏ về.

Nguyễn Vương đem quân về Diên Khánh. Quân sĩ bị bệnh tật nhiều. Tháng 9-10/1797 (tháng 8 ÂL.), Vương kéo quân về Gia Định. Để Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ Diên Khánh.

Chiến dịch đánh Quy Nhơn năm 1787 là một thất bại. Tây Sơn, sau cuộc nội biến trong triều đình Cảnh Thịnh, nhờ những tướng tài như Trần Quang Diệu, Lê Trung, vẫn còn mạnh thế, Nguyễn Ánh chưa thể thắng được. Biên giới hai bên, sau năm tháng chiến tranh, vẫn như cũ.

Nguyễn Ánh nghỉ binh trong hai năm để sửa sang quân đội và nội trị.

Nguyễn Ánh đóng tầu, xây thành, củng cố lực lượng quân Thần Sách

Tháng 12/1797-1/1798 (tháng 11/Đinh Tỵ) Nguyễn Ánh sai đóng thêm 50 thuyền đi biển, 100 thuyền sai và 200 thuyền chiến. Đắp bảo Kinh dinh và Mai Nương Bình Thuận, sai Phó tướng Phan Tiến Hoàng coi công việc. Sai chưởng cơ Tống Viết Phước làm cai Tầu vụ.

Tháng 2-3/1798 (tháng 1/Mậu Ngọ) sai Du Hải Quan đi Hạ Châu (Singapore) tìm mua đồ binh khí. Tháng 3-4/1798 (tháng 2 ÂL.) sửa lại thành Mỹ Tho, Phạm Văn Nhân trông coi.

Lại sai các đội mộc đĩnh (xuồng gỗ) ở Chính dinh [Sài Gòn] đi Quang Hoá [thuộc Tây Ninh, cách Sài Gòn 29 dặm về phiá Tây Bắc] tìm chở ván gỗ để đóng chiến thuyền lớn và thuyền kiểu Tây dương. Vua đến xem. Rừng Quang Hoá, theo Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức), gò đồi trùng điệp, rừng rú liền dăng, cây cối cao lớn chọc trời, rậm rạp hàng vài trăm đậm, thợ xẻ, thợ mộc dựng lều cắm trại để đẵn gỗ.

Như vậy, năm 1798, Nguyễn Ánh đã đóng được các tầu chiến Tây.

Tháng 5-6/1798 (tháng 4 ÂL.) sai Lễ bộ Ngô Tòng Châu cùng nguyên Lễ bộ kiêm Đốc học Nguyễn Thái Nguyên phụ đạo Đông Cung. Đông Cung rất kính trọng Ngô Tòng Châu; vị học giả này, sau khi tử tiết ở Bình Định cùng Võ Tánh, năm 1801, được phong làm Thái Tử Thái sư tước Quận công, thờ ở Thế Miếu.

Điểm mạnh của quân Nguyễn là thuỷ binh, sau nhiều lần đụng độ với Tây Sơn, Nguyễn Ánh rút kinh nghiệm: Tây Sơn rất mạnh về bộ binh, nhất là binh đội xây dựng cầu cống và thành luỹ: Trần Quang Diệu có thể cho đắp một loạt thành đất (bảo), rất kiên cố trong thời gian kỷ lục. Vì vậy, từ tháng 7-8/1798 (tháng 6 ÂL.), Nguyễn Vương cải tổ lại quân đội, đặc biệt mở rộng quân Thần Sách (Công binh và Pháo binh), bởi việc chế tạo bom đạn, đúc súng đại bác và xây đắp thành lũy, trở thành quan trọng hàng đầu.

Vương đặt 5 đồn quân Thần Sách: Trung đồn, Tiền đồn, Tả đồn, Hữu đồn và Hậu đồn (mỗi đồn 4 vệ) [mỗi vệ khoảng 600 quân] có Chánh thống và Phó thống cai quản.

Phạm Văn Triệu và Tôn Thất Chương làm Chánh, Phó thống Tiền đồn. Lê Văn Duyệt và Hoàng Viết Toản, làm Chánh, Phó thống Tả đồn. Trần Văn Tín và Phan Văn Kỳ, làm Chánh Phó thống Hữu đồn. Mai Đức Nghị và Nguyễn Đức Thiện, làm Chánh, Phó thống Hậu đồn.

Nguyễn Đức Xuyên và Nguyễn Đình Đắc, làm Chánh, Phó thống Trung đồn.

Lại lấy Chưởng cơ Tống Viết Phước, Tiền quân Thần Sách, làm Phó tướng Tả quân.

Lấy Phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân làm Chưởng cơ Giám quân quân Thần sách, thống suất năm đồn quân Thần Sách.

Trong một lực lượng Thần Sách hùng hậu như vậy, Olivier de Puymanel, là người có chức vụ cao nhất trong số người Pháp, ở thời kỳ này, được giữ chức Vệ uý [cai quản một vệ, khoảng 600 quân] cũng là một ngạch cao, nhưng không phải là địa vị hàng đầu, càng không là người “thống lãnh quân đội” như những ngòi bút Pháp thổi phồng. Puymanel ở dưới quyền các Chánh, Phó thống Tả, Hữu, Trung… đồn [như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Xuyên…] và các vị này lại ở dưới quyền của tướng Phạm Văn Nhân, chỉ huy quân Thần Sách. Và quân Thần Sách lại ở dưới quyền điều khiển của các tướng chỉ huy các dinh quân như Võ Tánh, Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương…, chính họ thuộc quyền trực tiếp điều khiển của Nguyễn Ánh.

Trong những chiến dịch sắp tới, 5 đồn quân Thần Sách do Phạm Văn Nhân thống lĩnh sẽ giữ vai trò chủ yếu trong chiến thắng của Nguyễn Ánh.

Tháng 9-10/1798 (tháng 8 ÂL.) Ngô Tòng Châu dâng sớ nêu những cái hại của “Phật, Lão, Dương Mặc (Da-Tô)”. Bá Đa Lộc rất ghét.

Tháng 11-12/1798 (tháng 10 ÂL.), Vương triệu Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở Diên Khánh về; sai Đông Cung (18 tuổi) thống lĩnh tướng sĩ dinh Tả quân và vệ tiền quân Thần Sách, đến giữ Diên Khánh, lần thứ nhì. Có Bá Đa Lộc, và các tướng Tống Viết Phước và Nguyễn Công Thái, hậu thuẫn. Phong Đặng Đức Siêu làm tham mưu Trung dinh.

Nguyễn Bảo xin hàng

Như trên đã nói, khoảng tháng 7-8/1797, khi đi đánh Quảng Nam, Nguyễn Ánh đã sai người dụ Nguyễn Bảo (con Nguyễn Nhạc) giết Lê Trung để lập công. Khi Nguyễn Ánh về Gia Định, Bảo ngầm có ý quy thuận. Năm 1798 (không rõ tháng), Nguyễn Bảo đánh úp Quy Nhơn, Nguyễn Văn Hưng thua chạy. Bảo sai đô đốc Đoàn Văn Cát và đô đốc Nguyễn Văn Thiệu giữ chợ Hội An [Phú Yên], rồi sai người dâng biểu xin hàng.

Tháng 12/1798-1/1799 (tháng 11 ÂL.) Vương sai Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đem quân đóng ở sông Đà Diễn, thuộc Phú Yên, rồi sai Nguyễn Văn Thành đến tiếp ứng Nguyễn Bảo. Nhưng Thành chưa kịp đến thì Quang Toản đã sai quân vây thành, bắt Bảo giết đi. Để Lê Văn Thanh trấn thủ Quy Nhơn. Đoàn Văn Các và Nguyễn Văn Thiệu đến Diên Khánh xin hàng.

Trong vụ binh biến này, Quang Toản nghi Tư lệ Lê Trung (thuộc nhóm Bùi Đắc Tuyên) ở Trà Khúc, có dính líu, bèn gọi Lê Trung về Thuận Hoá, giết đi. Rồi lại nghe lời gièm giết cả Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn. (Thực Lục I, t. 373).

Sau vụ giết hại công thần lần thứ nhì, triều đình Tây Sơn thực sự phân rẽ, ly tán.

Tháng 4/1799 (tháng 3/Kỷ Mùi), khi Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn lần thứ ba, đại đô đốc Tây Sơn Lê Chất, con rể Lê Trung, nổi tiếng thiện chiến, bỏ theo Nguyễn Ánh, được phong làm tướng quân, dưới quyền điều khiển của Võ Tánh.

Các tướng Tây Sơn khác: đại đô đốc Võ Đình Giai, Nguyễn Văn Điểm, đô đốc Lê Văn Niệm, Hồ Văn Viện, Trần Văn Lân, đô uý Mai Gia Cương, Nguyễn Văn Trí, cùng theo đến hàng.

Lỗi lầm của Cảnh Thịnh, lần này, đưa đến những hậu quả tai hại.

Tháng 12/1798, trong quân Nguyễn, có một mất mát lớn, Chưởng Tiền quân Bình tây đại tướng quân Tôn Thất Hội bị bệnh mất ở Sài Gòn, nơi ông đang trấn thủ, ở tuổi 42 (ÂL.). Tôn Thất Hội, hơn Nguyễn Ánh khoảng 5 tuổi, là một trong những tướng cột trụ của Nguyễn Ánh từ đầu, ông là người học rộng, là nhà kiến trúc, phụ trách việc xây thành Gia Định và Diên Khánh; sau khi chết, ông được phong làm Nguyên Phụ công thần đặc tiến Thượng trụ quốc Chưởng dinh.

Nguyễn Văn Thành lên thay thế làm Chưởng dinh Tiền quân.

Tháng 1-2/1799 (tháng 12/Mậu Ngọ) Vương Vệ uý Ô Li Vi (Olivier de Puymanel) đi thuyền hiệu Thanh Tước đến Hạ Châu (Singapore) tìm mua binh khí. Puymanel mất ngày 23/3/1799 ở tuổi 31, tại Malacca, (Cosserat, Notes bioghaphiques sur les français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III, t. 175).

Tháng 2-3/1799 (tháng 1/ Kỷ Mùi), sai Phó thống Hậu đồn quân Thần sách là Nguyễn Đức Xuyên quản vệ Hùng võ và kiêm luôn 5 cơ tượng (voi).

Trong thời gian từ tháng 11-12/1798 đến tháng 5/1799, không có chiến tranh, Đông cung vẫn trấn thủ Diên Khánh, cùng phó tướng Tống Viết Phước, phó tướng Nguyễn Công Thái và Bá Đa Lộc. Tống Viết Phước tình nóng, tỳ tướng có lỗi bị đánh roi; lúc giận, xỉ nhục Bá Đa Lộc, bị gọi về Gia Định.

Để chuẩn bị cho chiến dịch đánh Quy Nhơn sắp tới, tháng 3/1799 (tháng 2 ÂL.), Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phước Tường sang Xiêm nhờ vua Xiêm vận động quân Chân Lạp sang giúp và quân Vạn Tượng theo đường núi đánh xuống Nghệ An. Vua Xiêm ưng thuận.

Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ ba, 1799

Trước khi xuất quân, vương ban 32 điều quân luật để răn quân sĩ. Sai hoàng tử thứ nhì Hy trấn thủ Gia Định, cùng với Chưởng cơ Nguyễn Văn Nhân, Hình bộ Nguyễn Tử Châu và đốc học Nguyễn Thái Nguyên. Sai công bộ Trần Văn Thái đốc thúc đóng thuyền chiến để sẵn.

Tháng 4/1799 (tháng 3 ÂL.), Vương cử đại quân đi đánh Quy Nhơn. Sai Nguyễn Văn Thành điều bát bộ binh đi trước ra Diên Khánh. Vương thân đốc binh thuyền qua cửa Cần Giờ, Nguyễn Văn Trương tiên phong, Nguyễn Văn Thịnh và Trịnh Hoài Đức vận lương.

Tháng 5/1799 (tháng 4 ÂL.) thuyền Nguyễn Vương đến vũng Cù Huân, dừng lại ở thành Diên Khánh. Sai Nguyễn Văn Thành đánh Phú Yên. Nguyễn Đình Đắc, phó thống Trung đồn quân Thần Sách, làm Phó tướng Tả quân họp cùng Phó tướng Nguyễn Công Thái quản suất dinh Tả quân, phò Đông Cung đánh trận. Để tướng thượng đạo Nguyễn Long trấn Diên Khánh.

Nguyễn Vương tiến đến Thị Nại.

Sai Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức đem quân đóng ở Phú Trung.

Được tin, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đem binh Phú Xuân vào cứu, tiến đến Quảng Nam.

Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt và Nguyễn Đức Thiện đem quân Tả đồn và Hậu đồn (Thần sách) thẳng tới Tân Quan (tức Tam quan, thuộc Bình Định), đóng giữ các chỗ hiểm yếu.

Đại đô đốc Tây Sơn Đoàn Văn Cát giữ hai bảo [đồn đất] Thái An và Vĩnh Thuận.

Nguyễn Văn Trương đem thuyền đi tuần tra biển Quảng Ngãi.

Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức đánh nhau với Tây Sơn ở Thị Dã [tức Đồng Thị, Bình Định], Trương Tiến Thúy thua chạy, Võ Tánh đuổi đến cầu Tân An [Thôn Liêm Trực, huyện Tuy Phước, Bình Định], chém được đô đốc Nguyễn Thực.

Phiá Nguyễn, Vệ uý Thần sách Tôn Thất Nông tử trận.

Lê Văn Duyệt tiến đến Đạm Thủy [Nước Ngọt] đốt kho lương, chém tướng Giảng, tiến đến Thạch Tân [tức Bến Đá, phiá bắc Bình Định, giáp giới Quảng Ngãi].

Nguyễn Văn Thành đánh bảo Hội An, Phạm Văn Điềm đầu hàng, thu phục được Phú Yên.

Vương sai Nguyễn Văn Thành tiến quân tiếp với Võ Tánh.

Tháng 6/1799 (tháng 5 ÂL.) quân Nguyễn đến sát thành Quy Nhơn.

Nguyễn Ánh đến bảo Lãnh Vạn. Sai Võ Tánh làm đại tướng điều khiển bốn dinh quân ngũ.

Nguyễn Ánh thân chinh đánh Tân Quan [Quảng Ngãi], phái Nguyễn Công Thái, Nguyễn Đình Đắc, Tống Viết Phước và Phan Văn Kỳ đóng đồn từ Cung Quăng [Quảng Ngãi] đến Sa Lung chặn đường đại quân tiếp viện của Tây Sơn.

Tháng 7/1799 (tháng 6 ÂL.) Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng tiến quân đến Quảng Ngãi, nghe tin Nguyễn Ánh đã chiếm Tân Quan liền bỏ thuyền lên bộ, đem mấy vạn quân, thế mạnh vũ bão, tiến thẳng đến Bình Định.

Nguyễn Ánh vẫn sợ Trần Quang Diệu, ra mật lệnh rút lui. Lê Văn Duyệt và Tống Viết Phước đều can.

Trần Quang Diệu đóng quân ở núi Thạch Tân [tức Bến Đá, biên giới Quảng Ngãi-Bình Định]

Võ Văn Dũng đem quân lên Chông Hàm định đi tắt xuống đánh úp, ban đêm quân đi trong rừng, có con nai nhỏ, người đi trước kêu: “Nai! Nai!” Quân đi sau tưởng: “Quân Đồng Nai!” (tức quân Nguyễn Ánh), hoảng sợ, chạy toán loạn. Tống Viết Phước lợi dụng đem quân ra đánh, quân Tây Sơn tan vỡ; bắt được tù binh, đem đến rao trước thành Quy Nhơn để thị uy.

Võ Văn Dũng thua trận, được Trần Quang Diệu che chở, không báo về kinh, biết ơn, sau sẽ liên kết chặt chẽ với Trần Quang Diệu.

Đại binh Nguyễn Ánh đến Thạch Tân [Quảng Ngãi].

Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng lui quân về Thanh Hảo [Quảng Ngãi], Trần Viết Kết đem thuyền từ Thuận Hoá đến họp.

Ở Pháp, đảo chánh 18/6/1799, chấm dứt chế độ Directoire, lập chế độ Tổng Tài (Consulat). Nã Phá Luân làm đệ nhất Tổng Tài (1799-1804), rồi Đại Đế (1804-1814).

Võ Tánh chiếm Quy Nhơn

Ở Quy Nhơn, Thái phủ Tây Sơn Lê Văn Ứng, nghe tin viện binh Phú Xuân đến, bèn đem 6.000 quân tinh nhuệ và hơn 50 thớt voi đến ấp Tây Sơn thượng, thu chở quân lương ra tiếp viện.

Võ Tánh biết tin, ra lệnh cho Nguyễn Văn Thành đem quân và voi, Nguyễn Đức Xuyên tả đạo; Nguyễn Công Điền và Lê Chất, hữu đạo, Võ Tánh tự cầm trung đạo, cùng tiến đánh Lê Văn Ứng ở Cà Đáo, bắt được hết quân và voi. Ứng trốn thoát.

Thấy Lê Văn Ứng thua, trong thành không đủ lương thực, Đại tổng quản Lê Văn Thanh, thượng thư bộ binh Nguyễn Đại Phác và thiếu úy Trương Tiến Thúy dâng biểu xin hàng. Nguyễn Vương lấy nghiã “vua, tôi” đối đáp. Đó là tháng 7/1799, Võ Tánh chiếm Quy Nhơn,

Nguyễn Ánh vào thành Quy Nhơn, đổi tên là Bình Định, phủ dụ các hàng tướng, quân sĩ.

Để Võ Tánh, Ngô Tòng Châu ở lại trấn giữ.

Nguyễn Văn Trương thắng thuỷ quân của Trần Viết Kết ở ngoài biển Mỹ Ý [Quảng Ngãi].

Cảnh Thịnh bèn cử đại binh ở Thuận Hoá vào cứu viện, đóng ở sông Trà Khúc [Quảng Ngãi], sai nội hầu Lê Văn Lợi đánh bảo Mân Khê. Phó tướng Hữu quân Nguyễn Văn Lợi đóng chặt thành chống giữ. Lê Văn Lợi vây riết ba ngày, Nguyễn Văn Lợi dùng đại bác hoả xa, bắn địch chết hại rất nhiều. Trần Viết Kết đem hơn trăm chiến thuyền vào cửa Sa Huỳnh, định đánh úp sau lưng thành Mân Khê. Đêm ấy bão to, thuyền Tây Sơn đắm nhiều. Trần Viết Kết phải lui về cửa biển Cổ Lũy. Lê Văn Lợi lui về Trà Câu [Quãng Ngãi].

Tháng 9/1799 (tháng 8 ÂL.) Quang Toản giục tướng sĩ theo đường bộ tiến đánh, Trần Viết Kết nói: ngược gió đánh thủy không tiện. Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu khuyên Quang Toản trở về Thuận Hoá để bọn họ định liệu. Toản bèn về. Diệu, Dũng cũng lui quân về Quảng Nam, để tiết độ Nguyễn Văn Giáp đóng giữ Trà Khúc [Quãng Ngãi].

Nguyễn Văn Thành dâng biểu xin tiến quân lấy Thuận Hoá, nhưng Võ Tánh cản. Nguyễn Vương thấy quân đánh trận đã lâu, cũng thôi, thu xếp về Gia Định.

Tháng 10/1799 (tháng 9 ÂL.) Vương sai Phạm Văn Nhân quản 5 đồn quân Thần sách, Võ Di Nguy, quản dinh Trung thuỷ, và Công bộ Trần Văn Thái thống lãnh các hạng thuyền ghe, theo Đông cung về Gia Định trước.

Sai Nguyễn Văn Trương giữ cửa biển Thị Nại.

Sai Nguyễn Văn Tánh và Đặng Trần Thường giữ Diên Khánh.

Trong chiến dịch đánh Quy Nhơn lần này, không thấy Đông cung xuất trận.

Bá Đa Lộc mất ở Quy Nhơn ngày 9/10/1799 sau ba tháng bị bệnh dịch tả (thư của Linh Mục Le Labousse gửi giám đốc Hội thừa sai ngày 24/2/1800, Launay III, t. 374-382). Được đưa về Gia Định chôn cất.

Tháng 11/1799 (tháng 10 ÂL.) Nguyễn Ánh về tới Gia Định. Đóng thêm 100 chiếc thuyền. Trưng dụng thợ đúc, thợ bạc ở các dinh Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận về Gia Định để đúc súng ống và binh khí.

Tràn Quang Diệu và Võ Văn Dũng vây thành Bình Định, 1800

Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng định tháng 1/1800 tiến đánh chiếm lại Bình Định.

Được tin, Nguyễn Ánh mật báo cho Nguyễn Văn Tánh và Đặng Trần Thường sửa sang thành Diên Khánh, chuẩn bị sẵn.

Sai Nguyễn Văn Trương đem tất cả binh thuyền ở cửa Thị Nại về Cù Huân.

Mật báo cho Võ Tánh: “Đem quân hai đồn tả hữu Ngự lâm ra núi đóng để liên lạc với quân Diên Khánh”. Triệu Lê Chất về giữ dinh Trấn Biên [Biên Hoà].

Tháng 1/1800 (tháng 12 Kỷ Mùi) sửa thành Mỹ Tho, sai Nguyễn Huỳnh Đức trông nom.

Đại binh thuỷ bộ của Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã đến Bình Định. Nguyễn Ánh dự tính lương thực trong thành còn đủ một năm, định tới năm sau thuận gió, sẽ giải vây.

Tháng 2/1800 (tháng 1/ Canh Thân), bộ binh của Trần Quang Diệu tiến đánh Thạch Tân [Bến Đá, biên giới Bình Định-Quảng Ngãi]. Thuỷ binh của Võ Văn Dũng tiến đánh Thị Nại. Hậu quân Nguyễn Văn Biện phải rút vào thành Bình Định. Võ Tánh đóng chặt cửa thành không tiếp chiến.

Trần Quang Diệu đắp lũy dài vây bọc thành Bình Định, chu vi 4.340 trượng, mỗi trượng 2 người tuần giữ, bộ binh vây thêm vài vòng.

Võ Văn Dũng chỉ huy hai chiếc thuyền đại hiệu Định quốc và hơn 100 thuyền chiến chặn ngang cửa biển Thị Nại; dựng hai bảo ở bãi Nhạn Châu bên tả và ở núi Tam Toà bên hữu, đặt nhiều súng lớn, ở chỗ cao, thế hiểm, chặn địch không thể vào. Cô lập Võ Tánh và Ngô Tòng Châu trong thành.

Tướng Phạm Văn Điềm trước đã ra hàng, nay nghe tin Tây Sơn đến Bình Định, bèn chiếm Phú Yên, liên kết với Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu. Thế quân Tây Sơn rất mạnh.

Nguyễn Ánh phòng thủ Gia Định

Nguyễn Ánh sợ quân Tây Sơn thuận gió sẽ vào chiếm Gia Định, bèn ra lệnh phòng thủ các dinh trấn trong Nam. Sai Mạc Tử Thiêm làm trấn thủ Hà Tiên. Quân lính Bắc Hà, Thuận Hoá mới hàng, thấy Tây Sơn trở lại, nhiều người đào ngũ.

Tháng 2-3/1800 (tháng 2 ÂL.) Vương sai hoàng tử thứ hai là Hy quản suất tiền chi và vệ cung võ dinh Trung quân.

Cho rằng người Hồng Mao quen thuỷ chiến, Vương sắc cho thuyền trưởng khâm sai cai đội Ba La Di (Barisy) tập họp các thuyền buôn lại, dự bị quân nhu và chiến cụ, đợi điều khiển.

Lại bắt 5000 binh Chân Lạp, hẹn ngày họp đủ để theo việc quân.

Sai cai đội Nguyễn Văn Chấn (Vannier) quản tầu Phượng Phi, Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau) quản tầu Long Phi, Lê Văn Lăng (De Forcanz), quản tầu Bằng Phi, theo Trung quân sai phái.

Tháng 2-3/1800, đóng thêm 6 tầu đại hiệu và hơn trăm thuyền chiến.

Nguyễn Văn Thụy từ Vạn Tượng trở về cho biết Vạn Tượng chịu liên kết đánh Nghệ An.

Đại duyệt binh ở Đồng tập trận.

Đổi 5 đồn quân Thần Sách thành 5 dinh Thần Sách [tức là mở lớn thêm nữa].

Phạm Văn Nhân làm Giám quân Thần Sách.

Tháng 4/1800 (tháng 3 nhuận) lấy hàng thần là đốc học Nguyễn Gia Cát làm đốc học, dạy Đông Cung (Gia Cát là tiến sĩ nhà Lê). Lấy những người khoa bảng của nhà Lê và nhà Tây Sơn sung vào Hàn Lâm Viện. Lệnh cho dân Gia Định làm ruộng trồng trâu nuôi tằm.

Nước Xiêm biếu 30 xe thóc.

Nguyễn Ánh xuất quân cứu Bình Định

Tháng 4-5/1800 (tháng 3 nhuận), trong thành Bình Định, hai hàng tướng Tây Sơn là Võ Văn Sự và Nguyễn Bá Phong cùng hơn 400 quân, giết lính Nguyễn, mở cửa thành phiá Bắc ra hàng. Những hàng quân Tây Sơn còn lại trong thành, bị Võ Tánh giết hết.

Nguyễn Vương hay tin, vội vàng cử binh đi cứu viện.

Sai Đông Cung Cảnh giữ Gia Định cùng với Nguyễn Văn Nhân và Nguyễn Từ Châu.

Nguyễn Vương đem thuỷ quân ra Vũng Tầu, cho hoàng tử thứ tư đi theo [tức là Minh Mạng, sinh năm 1791, lúc đó 9 tuổi]. Nguyễn Đức Xuyên quản bộ binh và voi đi đường bộ.

Tháng 5-6/1800 (tháng 4 ÂL.), Nguyễn Đức Xuyên tiến đến Diên Khánh. Nghe tin quân Tây Sơn từ Phú Yên trở ra đắp hơn chín chục bảo sở (đồn đất), uy thế rất mạnh. Xuyên xin lui về Phan Rí chờ thủy quân, vương bắt ở lại Diên Khánh.

Thuyền vương đến cửa biển Cù Huân. Sai hoàng tử thứ hai là Hy trấn giữ Diên Khánh.

Sai Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Văn Tánh, Đặng Trần Thường đánh Phú Yên, thuỷ quân của Nguyễn Văn Trương đi trước. Ra dụ rằng: “Ta nay thân cầm sáu[đạo] quân, tiễu trừ nghịch tặc là ở trận này. Các ngươi phải nên cố gắng. Ai có thể bắt hay chém được chủ tướng giặc là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, thì chánh quản được phong tước Công, phó quản trở xuống được gia cho một hàm và thưởng tiền một vạn quan.” (Thực Lục, I, t. 411).

Trần Quang Diệu quyết không giải toả vòng vây Bình Định

Trần Quang Diệu sai đại đô đốc Đào Công Giản và đô đốc Tuấn (không rõ họ) đem quân Hổ hầu vào Phú Yên, họp với Phạm Văn Điềm đóng giữ các bảo Hội An và La Thai.

Thuyền Nguyễn Vương tiến đến Tích Áo [Vũng Tích, Phú Yên], sai Nguyễn Văn Thành điều bộ binh tiến đánh Xuân Đài, Trần Đắc Khoan coi lương.

Tháng 6-7/1800 (tháng 5 ÂL.) Chân Lạp đem 5.000 quân đến tiếp viện.

Nguyễn Văn Thành tiến đánh Xuân Đài chia ba đạo do Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc và Trương Tiến Bảo chỉ huy, đánh nhau với Tây Sơn ở Xích Thổ và Thanh Kỳ [Phú Yên], chiếm được bảo Hội An, đô đốc Tuấn và Phạm Văn Điềm lui về gò Ái Thạch, dựa thế núi để giữ.

Quân Nguyễn Đức Xuyên tới họp với quân Nguyễn Văn Thành tiến đánh, quân Tây Sơn thua rút về La Thai. Nguyễn Văn Thành theo đường tắt vượt đèo đánh úp sau lưng. Đại đô đốc Đào Công Giản bị Võ Tánh đón đánh, bắt được. Phạm Văn Điềm và đô đốc Tuấn chạy thoát.

Ở Quy Nhơn, Võ Tánh cùng tướng sĩ mở cửa Nam, đánh nhau với quân Tây Sơn ở núi Tam Tháp, đốt phá luỹ, chiều tối lại rút quân về thành. Trần Quang Diệu càng vây chặt hơn.

Vương sai Trịnh Hoài Đức chở lương ở Cù Huân đến tiếp viện Xuân Đài.

Quân Nguyễn vẫn không phá được vòng vây của Tây Sơn để cứu Võ Tánh ở Bình Định.

Triệu hoàng tử Hy đến đóng ở bảo Hội An [Phú Yên], để Lưu Tiến Hoà giữ Diên Khánh.

Tháng 7-8/1800 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phước Tường cùng quân Vạn Tượng đi đường núi tiến đánh Nghệ An: Đô đốc Nguyễn Doanh Nhạc thua ở Bố Đồn; phò mã Nguyễn Văn Trị thua ở Lam Đồn.

Thuyền Nguyễn Vương tiến đóng cửa biển Cù Mông [bắc Phú Yên, gần Quy Nhơn].

5000 viện binh Chân Lạp đến bảo Hội An [Phú Yên], sẽ do Nguyễn Văn Thành điều khiển.

Nguyễn Văn Thành đánh bảo Chủ Sơn [ở phiá Nam huyện Tuy Viễn, Bình Định], đào hầm đặt ngầm thuốc súng đánh địa lôi, bảo đổ hơn hai trượng, nhưng vẫn không hạ được; vệ uý Nguyễn Công Trọng trúng đạn chết.

Vương sai các dinh Thần Sách: Nguyễn Huỳnh Đức, Phạm Văn Nhân, Tống Viết Phước, Mai Đức Nghị chia quản các thuyền ghe giữ cảng Cù Mông; Võ Di Nguy, đóng giữ đồn Thước Áo, Nguyễn Hữu Chính giữ bảo hữu ngạn Cù Mông.

Đánh từ tháng 8 đến tháng 12/1800, quân Nguyễn Ánh thắng vài trận: Nguyễn Văn Thành chiếm được bảo Chủ Sơn, nhưng vẫn không làm chủ được tình hình, quân tướng Tây Sơn ra hàng thường bỏ trốn hoặc chống lại.

Trận Thị Nại, 1801, Võ Di Nguy tử trận

Tháng 1-2/1801 (tháng 12/Canh Thân) Nguyễn Ánh vẫn chưa giải vây được Bình Định mà cửa biển Thị Nại thuỷ quân Võ Văn Dũng vẫn đóng giữ chặt.

Tháng 2-3/1801 (tháng 1/Tân Dậu), Vương sai Nguyễn Văn Thành tiết chế các đạo bộ binh.

Trần Quang Diệu vẫn vây chặt thành Bình Định mấy vòng.

Ban đêm Võ Tánh mở cửa thành ra đánh đốt trại địch, quân Tây Sơn bỏ chạy, nhưng sáng sớm lại trở lại vây đông hơn.

Đặng Đức Siêu đã dâng chiến thuật đánh hoả công, nay dụng cụ cho chiến thuật đã làm xong.

Vương mật định hôm 28/2/1801 (16/1/Tân Dậu), cất quân đánh úp. Để Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông. Vương thân chinh đem thuỷ quân tiến phát.

Nửa đêm hôm ấy, qua Tiêu Cơ, Nguyễn Văn Trương tiên phong, bắt được lính tuần của Tây Sơn, biết khẩu hiệu, Trương cho thuyền nhỏ lẻn vào Tiêu Ki, chèo qua thuyền lớn của địch, đến miếu Tam Toà, chém được đô đốc Trà, đốt rất nhiều thuyền địch. (Liệt truyện, II, t. 147)

Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt đem đại binh vừa đến, đánh nhau kịch liệt với quân Võ Văn Dũng từ giờ Dần (6 giờ sáng) đến giờ Ngọ (12 giờ trưa).

Võ Di Nguy bị bắn chết.

Lê Văn Duyệt mặc kệ, cứ xông lên, cuối cùng, đến giờ Thân (4 giờ chiều) lọt vào được vào cửa biển, dùng đuốc hoả chiến, hợp chiều gió, phóng hoả đốt thuyền đại hiệu. Võ Văn Dũng thua chạy, thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết.

Trận Thị Nại 1801 là võ công lớn nhất của Nguyễn Ánh.

Làm xoay đổi hẳn cục diện chiến tranh.

Trong trận này có ba người Pháp tham dự là cai đội Nguyễn Văn Chấn (Vannier) quản tầu thuyền hiệu Phượng Phi; Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau) quản thuyền Long Phi, và Lê Văn Đăng (de Forcanz), quản tầu Bằng Phi, đi theo Trung quân do Tống Phước Lương điều khiển. (Thực Lục, t. 407). Họ sẽ còn tiếp tục các chiến dịch Quảng Nam và Phú Xuân. Công trạng họ như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu sau.

Sau khi thua trận Thị Nại, Võ Văn Dũng thu thập tàn quân hợp lại với Trần Quang Diệu, sai Tư khấu Định giữ Thạch Tân [biên giới Bình Định-Quảng Ngãi], đô đốc Nguyễn Văn Ngữ giữ Đạm Thuỷ [Nước Ngọt, Bình Định], đô đốc Võ Văn Sự giữ Tân Quan [Quảng Ngãi].

Thắng trận Thị Nại, nhưng Nguyễn Vương vẫn không giải vây được Quy Nhơn.

Ngày 20/3/1801 (ngày Quý Sửu 6/2/Tân Dậu) hoàng tử Cảnh mất vì bệnh đậu mùa tại Gia Định, ở tuổi 22. Vương sai Nguyễn Văn Nhân và Nguyễn Tử Châu giữ Gia Định.

Ở mặt trận Phú Yên, Phạm Văn Điềm chiếm bảo Hội An. Nguyễn Đức Thiện, Trần Văn Trạc, Phạm Tiến Tuấn lui giữ Xuân Đài. Vương sai Nguyễn Đức Xuyên và Tống Viết Phước ra đánh, Tây Sơn rút quân về.

Nguyễn Văn Trương chiếm Quảng Ngãi, Quảng Nam, 1801

Tháng 3-4/1801 (tháng 2 ÂL.) Vương sai Nguyễn Văn Trương đem thuỷ binh ra đánh Quảng Ngãi, Quảng Nam cùng với các vệ quân Thần Sách của Phan Văn Đức, vệ Phấn Dực Trung quân Tống Phước Lương, vệ Thuận Võ Vương Văn Học và các chúa tầu hiệu Phượng Phi, Long Phi, Bằng Phi là bọn Nguyễn Văn Chấn (Vannier), Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau) và Lê Văn Lăng (De Forcanz) đều thuộc quyền (Thực Lục, t. 432).

Tháng 4-5/1801 (tháng 3 ÂL.), Nguyễn Văn Trương tiến đến cửa biển Cổ Lũy [Quảng Ngãi] đánh phá kho Trà Khúc, đô đốc Tuấn bỏ chạy.

Phá được Trà Khúc, Nguyễn Văn Trương tiến vào cửa biển Đại Chiêm, chiếm Hội An và Phú Triêm. Hoàng Văn Tự đem binh bản bộ tiếp ứng, bắt được 24 thớt voi Tây Sơn. Đại đô đốc Tây Sơn Nguyễn Văn Xuân và trấn thủ Văn Tiến Thể giữ ải La Qua, bị Nguyễn Văn Trương đánh úp, thua chạy, thu được 80 khẩu đại bác.

Nguyễn Văn Trương chiếm lại dinh Quảng Nam.

Nguyễn Vương sai Phạm Văn Nhân quản ba chiếc thuyền đại hiệu tiến vào Đà Nẵng, kiêm quản cả tướng sĩ các thuyền hiệu Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi để cùng sách ứng.

Cho tham quân tượng dinh Lê Nguyên, quê Quảng Nam theo Nguyễn Văn Trương điều khiển, dặn Trương chọn nơi hiểm yếu đặt ba bảo theo hình tam giác, sau bảo có Trường Giang (sông lớn nối cửa Đại Chiêm với Tam Kỳ) để thuỷ bộ tiếp ứng được nhau (Thực Lục, t. 434).

Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng sai đặt đồn bảo liên tiếp ở Phú Hoà, cầu Đông Giang, cầu Tân Hội, chống lại.

Nguyễn Vương sai Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Khiêm tiến đánh, thắng, bắt được đô đốc Nguyễn Bá Phong, nhưng Vệ uý vệ ban trực tả là Võ Văn Tài trúng đạn chết.

Nguyễn Vương vào đến cầu Tân Hội [Quảng Ngãi].

Tây Sơn nhiều lần đánh bảo Vân Sơn, Nguyễn Văn Thành sai Lê Chất chống đỡ.

Phạm Văn Điềm tấn công Phú Yên: Nguyễn Long giữ đồn La Thai, Lưu Tiến Hòa giữ bảo Hội An, cả hai thua trận, Hòa bị giết. Long chống không nỗi để mất quân lương, bị tội.

Hoàng tử thứ hai là Hy mất, nguyên giữ chức cai đội, đi theo quân, ở tuổi 20. Sai đưa về Gia Định chôn cất.

Trong hai tháng ở mặt trận, Nguyễn Vương chết hai con trai.

Quyết định bỏ Quy Nhơn đánh Phú Xuân

Nguyễn Vương xuất quân từ tháng 5-6/1800 (tháng 4 ÂL.), trong gần một năm, vẫn chưa giải vây được Bình Định.

Võ Tánh và Ngô Tòng Châu bị vây từ tháng 1/1800, trong một năm rưỡi.

Thành Bình Định gần hết lương, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bao vây càng chặt.

Vương sai người mật báo cho Võ Tánh nên phá vòng vây ra hội với đại binh. Tánh trả lời: Liều chết giữ tới cùng. Tất cả quân chủ lực của Tây Sơn hiện ở đây, hoàng thượng nên lợi dụng đánh Phú Xuân (Liệt truyện II, t. 108). Đặng Đức Siêu và Trần Văn Trạc [tham thi bộ Hình, Liệt truyện chép Chạc] cũng khuyên vua nên đánh Phú Xuân hiện đang bỏ trống. Đặng Đức Siêu biết rõ địa hình Phú Xuân, dâng chiến thuật: “Chia quân thuyền làm hai đạo: một đạo đánh cửa Tư Hiền, một đạo đánh cửa Noãn Hải (cửa Thuận An)” (Liệt truyện II, t. 188). Vương mới quyết.

Trận Phú Xuân, 1801

Ngày 5/6/1801 (ngày Canh Ngọ 24/4 Tân Dậu), Vương thân chinh đốc thuỷ quân ra cửa Thị Nại.

Ngày 7/6/1801 (ngày Nhâm Thân 26/4 Tân Dậu) thuyền vua tới Cù Lao Chàm. Gọi Nguyễn Văn Trương tới Đà Nẵng chờ lệnh.

Tống Viết Phước, Trần Văn Trạc giữ Quảng Nam.

Ngày 8/6/1801 (ngày Quý Dậu 27/4/Tân Dậu) Vương tới Đà Nẵng họp với các tướng.

Vương quyết định đánh Phú Xuân theo chiến lược của Đặng Đức Siêu: Thuỷ quân tiến làm hai đạo; một vào cửa Eo (cửa Thận An); một vào cửa Tư Dung (tức Tư Hiền).

Ngày 9/6/1801 (ngày Giáp Tuất 28/4/Tân Dậu) chia cắt nhiệm vụ: Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhân tiến ra cửa Eo. Hoàng Văn Tự và Bạch Văn Đoài đem binh voi theo đường bộ Cu Đê. Thuyền vua tiến đóng ở vụng Chu Mãi.

Ngày 11/6/1801 (ngày Bính Tý 1/5/Tân Dậu), đại binh tiến vào cửa Tư Hiền.

Vua Cảnh Thịnh đã sai phò mã Nguyễn Văn Trị và đại đô đốc Trần Văn Tạ giữ núi Quy Sơn (Linh Thái), cho đóng cọc gỗ dưới lạch sông để ngăn quân Nguyễn.

Lê Văn Duyệt và Lê Chất đi tiên phong. Quân Tây Sơn ở trên cao bắn đại bác xuống, quân Nguyễn đánh suốt ngày không tiến được. Đến đêm, mới sai quân ngầm đội mấy chục thuyền chiến, vượt bãi cát vào phá Hà Trung, phía sau lưng địch, chia quân theo đường lạch, nhổ cọc mà tiến.

Ngày 12/6/1801 (ngày Đinh Sửu 2/5/Tân Dậu) Vương thân đốc quân đến bến đò Trừng Hà, Lê Văn Duyệt bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách. Quân Nguyễn tiến đến cửa Thuận An.

Vua Cảnh Thịnh đem đại quân ra cửa Thuận An chống với quân Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhân, nhưng chưa giao chiến, đã bỏ chạy.

Ngày 13/6/1801 (ngày Mậu Dần, 3/5/Tân Dậu) Nguyễn Vương vào Phú Xuân.

Cảnh Thịnh chạy ra Bắc. Vương sai Lê Chất đem bộ binh đuổi theo, Lê Chất (nguyên hàng tướng Tây Sơn) khua trống đi thong thả, để Quang Toản thoát, bị gọi về. Nhưng Nguyễn Ánh lờ đi, không bắt tội.

Được tin Phú Xuân bị tấn công, Trần Quang Diệu sai đại đô đốc Trương Phúc Phượng và các tướng đem đại binh đi đường núi về cứu Phú Xuân; nhưng bị người Man [người Thượng] đánh lừa, dẫn đi quanh co, hết lương thực, Trương Phúc Phượng đầu hàng ở Tả Trạch nguyên. Quân Tư khấu Định đến Cao Đôi gặp quân của Lê Văn Duyệt và Lê Chất, giao chiến, thua trận, Định chết ở đất Man. Các đạo quân khác bị bắt cả.

Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương đem thuỷ binh tiến đánh Linh Giang (sông Gianh), chặn đường lui của Tây Sơn. Phạm Văn Nhân giữ cửa Thuận An, Phan Văn Triệu và Tống Phước Châu giữ Tả Trạch nguyên và Tam ải.

Ra lệnh ai bắt được Tây Sơn thì trọng thưởng, che giấu thì xử tử.

Lê Văn Duyệt, Lê Chất chiếm lại Quảng Ngãi. Tống Viết Phước tử trận

Tháng 6/1801, mặc dù Tây Sơn đã mất cả Quảng Nam lẫn Phú Xuân, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng vẫn vây siết Bình Định.

Không những thế, Trần Quang Diệu còn muốn chiếm lại Quảng Nam, bèn sai đô ngu Nguyễn Văn Giáp, đại đô đốc Lê Danh Phong, đô đốc Nguyễn Văn Khôn, tham đốc Hồ Văn Tú, đem hơn 7000 quân và 40 thớt voi, ra đóng ở Lương Châu và Phố Hoa, tiến đến Điện Bàn, chiếm lại Quảng Nam.

Tống Viết Phước xin cứu viện. Nguyễn Vương hạ lệnh phải giữ thành, không ra đánh đợi viện binh. Rồi sai Lê Văn Duyệt thống lính bộ binh cùng Lê Chất quay về Quảng Nam và sai Tống Viết Phước đem thuỷ binh về cứu Bình Định. Lê Chất và Lê Văn Duyệt tới Quảng Nam, Nguyễn Văn Giáp bỏ chạy.

Sau khi chiếm lại được Quảng Nam, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất và Tống Viết Phước, đem quân đánh xuống Quảng Ngãi.

Đại binh của Tống Viết Phước, Lê Văn Duyệt, Lê Chất đến Quảng Ngãi, bắt được Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự, ở bảo Trà Khúc, giải về Kinh.

Trần Quang Diệu nghe tin Trà Khúc mất, thân hành cùng với Lê Danh Phong, Từ Văn Chiêu, đem quân, voi ra Tân Quan [Quảng Ngãi] đặt đồn trại dọc núi chống giữ.

Lê Văn Duyệt tiến đóng đồn ở Thanh Hảo [Quảng Ngãi] đắp lũy dài phòng bị.

Tống Viết Phước đem thuỷ binh vào cửa Sa Huỳnh [Quảng Ngãi] thắng các trận My Sơn và Cung Quăng, tiến tới Bức Cốc [tức Hang Dơi ở Bến Đá Bình Định] thì bị phục binh Tây Sơn giết chết.

Đại đô đốc Lê Danh Phong, thuộc tướng của Trần Quang Diệu, giữ Tân Quan đầu hàng. Quân Nguyễn chiếm xong Quảng Ngãi.

Trong dịp thăng thưởng tướng sĩ tháng 7/1801, có ba người Pháp Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau), Nguyễn Văn Chấn (Vannier), Lê Văn Lăng (de Forcanz) vẫn quản các thuyền hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, được thăng từ cai đội lên cai cơ (TL, t. 451).

Thăng Nguyễn Văn Trương làm Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây đại tướng quân quận công. (TL, t. 452).

Đồng thời, Nguyễn Vương bắt đầu chuẩn bị đánh ra Bắc. Sai giám thành cai đội Nguyễn Văn Yên đến Động Hải ngắm đo luỹ Trấn Ninh (tức trường luỹ Động Hải), xem khắp tình thế từ núi Đầu Mâu đến cửa Nhật Lệ, vẽ bàn đồ (lũy dài 5.120 trượng) (TL, t. 453).

Sai khâm sai thuộc nội cai đội Ba La Di (Barisy) đi Hạ Châu (Singapore) tìm mua súng đạn. (TL, I, t. 456)

Sai đắp đường quan từ Phú Xuân đến Động Hải (Trấn Ninh).

Ngày 30/8/1801 (22/7 Tân Dậu) Vương đi Quảng Bình, xem hình thế lũy Trấn Ninh, chia đồn đặt súng chống giữ.

Tháng 8-9/1801 (tháng 7 ÂL.) Quân Nguyễn giữ từ Thạch Tân [Quảng Ngãi] đến sông Gianh có khoảng 4 vạn người, ở Quy Nhơn có hơn 3 vạn (TL, t. 453).

Trần Quang Diệu chiếm lại Quy Nhơn, Võ Tánh, Ngô Tòng Châu tử tiết

Trong khi đại quân của Lê Văn Duyệt, Lê Chất và còn bị kẹt ở Quảng Ngãi, chưa tiến được, thì Võ Tánh và Ngô Tòng Châu, hết lương thực, không thể cầm cự.

Thành Bình Định bị Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng bao vây từ tháng 1/1800 đến tháng 6/1801, là một năm rưỡi. Đã phải giết cả ngựa, voi để ăn. Thế cùng, Võ Tánh đưa thư, mật tính với Nguyễn Văn Thành liều chết đánh ra, nhưng phút chót thấy mưu bị lộ, không làm nữa. Bàn với Ngô Tòng Châu, nộp thành rồi chết.

Ngô Tòng Châu uống thuốc độc tự tử ngày 5/7/1801 (25/5/Tân Dậu). Võ Tánh chôn cất cho Ngô Tòng Châu. Sai lấy củi khô chất dưới lầu bát giác, viết thư cho Trần Quang Diệu, khuyên tướng sĩ không có tội, không nên giết hại, rồi phóng lửa tự đốt, hôm đó là ngày 7/7/1801 (27/5/Tân Dậu).

“Tính chết vì nghiã, Diệu dẫn quân vào thành, trông thấy thương chảy nước mắt ra, lấy lễ thu chôn, tướng sĩ ở trong thành, giặc không giết hại ai cả. Rồi các tướng sĩ ấy lần lượt ra về.” (Liệt truyện II, t. 110).

Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng ngay sau khi vào thành Bình Định, sai đắp một luỹ ngang ở Vân Thê để chặn đường quân Nguyễn vận lương cho Thị Nại. Lại sai Phạm Văn Điềm ra đánh Phú Yên.

Tháng 9-10/1801 (tháng 8 ÂL.) Trần Quang Diệu Võ Văn Dũng đánh Hoa An, Hoa Lộc, chiếm đường tiến đánh Phú Yên. Quân Nguyễn Văn Thành bị thiệt hại nặng.

Tháng 10-11/1801 (tháng 9 ÂL.), Trần Quang Diệu và Từ Văn Chiêu đem 18.000 quân tinh nhuệ lên đóng ở địa phận Thanh Hảo [Quảng Ngãi] trực diện với quân Lê Văn Duyệt và Lê Chất.

Ở mặt trận Phú Yên, Nguyễn Văn Thành đánh nhau với Võ Văn Dũng. Dũng sai Nguyễn Văn Trí đem 700 quân tiếp viện, Trí bỏ Tây Sơn, theo Nguyễn Văn Thành.

Từ Quảng Ngãi, Trần Quang Diệu nghe tin Võ Văn Dũng bại trận ở Phú Yên, bèn đem quân trở về bảo Lĩnh Vạn, để Từ Văn Chiêu ở lại chống với Lê Văn Duyệt ở Thanh Hảo.

Võ Văn Dũng chiếm được bảo Khôi Diêu (Lò Vôi), đắp luỹ đất từ Tháp Cải đến Sản Sơn. Nguyễn Văn Thành đánh úp, thắng được.

Tháng 12/1801 (tháng 11 ÂL.), ở mặt trận Quảng Ngãi, đại đô đốc Tây Sơn Lê Đình Chính ra hàng ở Thanh Hảo. Lê Văn Duyệt sai đóng gông giải về kinh, được tha. Chính dâng bản đồ 13 đạo thừa tuyên ở Bắc Hà.

Ở Phú Xuân, Nguyễn Vương tiến hành việc chuẩn bị đánh ra Bắc. Sai Tống Phước Lương đem binh thuyền ra sông Gianh hợp với Đặng Trần Thường.

Lại sai hữu tham tri bộ Công Nguyễn Khắc Thiệu đem hai cơ Kiên Châu và Thiện Châu cùng hơn 390 người ty Công bộ về Gia Định đóng 200 thuyền ô, thuyền sai [thuyền đi nhiệm vụ] và thuyền chiến.

Sai Tăng Quang Lưu đi Hà Tiên nấu luyện diêm tiêu để sung quân dụng.

Sai chúa tầu Phượng Phi là Nguyễn Văn Chấn (Vannier) và chúa tầu Bằng Phi là Lê Văn Lăng (de Forcanz) chở 15.000 phương gạo từ Quảng Nam đến quân thứ Thị Nại (Thục Lục I, t. 474).

Trận Trấn Ninh, 1802

Ở mặt Bắc, tháng 12/1801 (tháng 11 ÂL.) Nguyễn Văn Trương đóng ở Động Hải [tức Trấn Ninh, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình] được thám tử báo tin đại binh Tây Sơn từ Thăng Long sắp vào, bèn dâng sớ xin thêm quân.

Vua Cảnh Thịnh cùng em là Quang Thuỳ cử đại binh thủy bộ 30.000 người vào đánh. Quang Thuỳ vì con vợ thứ, nên là em, nhưng nhiều tuổi hơn Quang Toản, tính can trường, được Quang Trung cho làm trấn thủ Nghệ An từ 1789. Bùi Thị Xuân, phu nhân tướng Trần Quang Diệu cũng đem 5000 quân bản bộ đến giúp.

Tư lệ Đinh Công Tuyết làm tiên phong, đụng độ với quân Đặng Trần Thường ở Hoành Sơn. 200 binh Nguyễn đầu hàng, Đặng Trần Thường rút về bảo Thanh Hà [huyện Bố Trạch, Quảng Bình].

Đinh Công Tuyết tiến đóng đồn Bụt Sơn, Thiếu tế Nguyên đóng đồn ở Pháp Kê, Tổng quản Siêu đóng đồn ở Ba Đồn. Đặng Trần Thường lại lui quân về Ngoã Dinh (Dinh Ngói) [huyện Bố Trạch, Quảng Bình].

Nguyễn Vương quyết định thân chinh, để quốc thúc (chú vua) Tôn Thất Thăng giữ Phú Xuân, cùng Nguyễn Văn Khiêm quản quân ngự lâm và các đội Thần sách. Nguyễn Công Hà và Nguyễn Hữu Chính giữ cửa Thận An.

Nguyễn Vương đến đóng ở Động Hải (Trấn Ninh).

Tháng 1/1802 (tháng 12/ Tân Dậu), Vương triệu Phạm Văn Nhân (đang giữ cửa Thận An) đến hành tại (chỗ vua đóng quân).

Tây Sơn đánh Ngõa Dinh, Đặng Trần Thường lui về Động Hải. Tình hình quân Nguyễn khá khẩn cấp.

Vừa lúc đó, binh thuyền Tống Phước Lương đến cửa Nhật Lệ.

Tây Sơn tiến đến luỹ Trấn Ninh.

Lúc đó mặt trận Bình Định cũng đăng găng, Nguyễn Văn Thành dâng mật sớ nói Trần Quang Diệu liều chết giữ thành không thể đánh được, mà lương quân ở Thị Nại đã gần hết. Vua bèn sai Nguyễn Hữu Chính chở 25.000 phương gạo ở kinh ra giúp.

Tháng 2/1802 (tháng 1/Nhâm Tuất) Nguyễn Vương đang đóng ở Động Hải [Trấn Ninh].

Vua Cảnh Thịnh sai Nguyễn Quang Thùy và tổng quản Siêu đem bộ binh đánh Trấn Ninh. Còn Tư lệ Đinh Công Tuyết, đô đốc Nguyễn Văn Đằng, đô đốc Lực, kết hợp với hơn trăm thuyền của Tề Ngôi (giặc biển theo Tây Sơn) bày thủy trận ở cửa Nhật Lệ.

Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ binh ra biển tham chiến. Còn Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường chống giữ mặt bộ.

Quân Tây Sơn tấn công Trấn Ninh. Bám sát như kiến bò lên. Quân Nguyễn từ trên núi thả đá xuống, Tây Sơn chết rất nhiều. Quang Toản muốn rút quân. Bùi Thị Xuân nắm cương ngựa giữ lại. Bà cưỡi voi xuất trận, cảm tử thúc quân đánh từ sáng đến trưa, không lui (Liệt truyện, II, t. 570, Thực Lục, t. 479).

Thủy quân của Nguyễn Văn Trương nhờ gió bắc thuận, cướp được 20 chiến thuyền địch ở cửa Nhật Lệ.

Thấy thủy binh thua, bộ binh rối loạn, Quang Toản chạy về Đông Cao (huyện Bố Trạch, Quảng Bình), Nguyễn Văn Kiên đầu hàng.

Biết thuyền lương Tây Sơn còn đậu 50 chiếc ở sông Gianh, Tống Phước Lương và Nguyễn Văn Vân [con Nguyễn Văn Trương] đón đánh, bắt được hết cả thuyền lương và 700 quân. Quân Tây Sơn tan vỡ. Thượng thư Nguyễn Thế Trực, đô đốc Trần Văn Mô, tham đốc Bùi Văn Ngoạn, thiếu tể Nguyên đều bị bắt.

Đại thắng, Nguyễn Vương bàn rút quân về Phú Xuân. Các tướng đều muốn thừa thắng tiến ra Bắc, Nguyễn Vương nói: “Trong bọn giặc chỉ có Trần Quang Diệu là ghê nhất”. Diệu chưa trừ xong không nên khinh tiến” (Thực Lục, I, t. 480). Ngày 15/2/1802 (ngày Ất Dậu 13/1/Nhâm Tuất) Nguyễn Vương về tới Phú Xuân.

Mặt nam, quân Nguyễn, vẫn không hạ được thành Bình Định.

Tháng 4/1802 (tháng 3 ÂL.), tình thế Tây Sơn ở trong thành càng ngày càng khẩn cấp. Nghe tin đại binh thua trận Trấn Ninh, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cùng các tướng sĩ Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Điềm, Lê Văn Hưng hơn 80 người và 3000 quân thiện chiến đem 86 thớt voi đực ban đêm bỏ Quy Nhơn, theo đường Lào, về Nghệ An (TL, t. 499).

Nguyễn Vương đổi phủ Gia Định làm trấn Gia Định.

Tháng 5/1802 (tháng 4 ÂL.), Vương sửa đắp hoàng thành (Huế) (TL, t. 487).

Vua Gia Long ra Bắc

Theo lời khuyên của Đặng Đức Siêu (tham tri bộ Lễ) và Trần Văn Trạc (tham tri bộ Hình), Nguyễn Vương lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long trước khi tiến đánh Thăng Long.

Ngày 31/5/1802 (ngày Canh Ngọ 1/5 Nhâm Tuất) lập đàn ở đồng An Ninh tế trời đất cáo về việc đặt niên hiệu.

Ngày 1/6/1802 (ngày Tân Mùi 2/5 Nhâm Tuất) kính cáo liệt tổ. Đặt hiệu là Gia Long. Ban ấn cho Quốc thúc quận công Tôn Thất Thăng. Thăng chức cho các tướng sĩ: Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Nhân, Phạm Văn Nhân tước quận công.

Cho Đô thống chế Tả dinh quân Thần Sách là Lê Văn Duyệt làm khâm sai Chưởng Tả quân bình Tây tướng quân, đổi Tả đồn quân Ngự Lâm làm Hậu quân.

Cho Lê Chất làm Khâm sai Chưởng Hậu quân bình Tây tướng quân, vv…

Truyền hịch 6 điểm cho dân Bắc Hà. Định 8 điều quân chính.

Cử Trịnh Hoài Đức đi sứ Thanh, đặc gia chức Thượng thư: Trịnh Hoài Đức làm thượng thư bộ Hộ.

Ngày 20/6/1802 (ngày Canh dần 21/5/Nhâm Tuất, vua rời Kinh sư, cho hoàng tử thứ tư (Minh Mạng), 11 tuổi, đi theo, chinh phục Bắc Hà.

Ngày 22/6/1802 (ngày Nhâm Thìn 23/5/Nhâm Tuất, đến An Lạc (Quảng Trị).

Ngày 25/6/1802 (ngày Ất Mùi 26/5/Nhâm Tuất) đến Động Hải (Trấn Ninh, Quảng Bình).

Ngày 26/6/1802 (ngày Bính Thân 27/5/Nhâm Tuất) đến Thanh Hà.

Sai Đặng Trần Thường theo đường thượng đạo đánh úp Hoành Sơn (Đèo Ngang).

Nguyễn Văn Trương điều khiển thủy binh. Lê Văn Duyệt điều khiển bộ binh, đi đường trung đạo. Nguyễn Văn Xuyên đem voi qua sông Gianh. Tham tri bộ Hộ Nguyễn Hữu Đồng chở lương.

Thuỷ binh của Nguyễn Văn Trương đến cửa Ròn (Quảng Bình) đô đốc Nguyễn Văn Ngũ và Nguyễn Văn Lục thua chạy, tiến lấy được dinh Hà Trung.

Lê Văn Duyệt chiếm đồn Đại Nại (sở lỵ huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh)

Ngày 30/6/1802 (ngày Canh Tý 1/6 Nhâm Tuất) vua ngừng ở Hà Trung [theo Đại Nam Nhất thống chí, thì Hà Trung ở Thanh Hoá, mà tháng 6/1802, vua Gia Long chưa thể đến Thanh Hoá, vậy Hà Trung này có lẽ là dinh Hà Trung, ở Hà Tĩnh hay Nghệ An chăng?]

Thuỷ binh tiến vào cửa biển Hội Thống, đổng lý Nguyễn Văn Thận thua trận.

Bộ binh tiến đến trấn Nghệ An, bắt được Nguyễn Lân con Nguyễn Nhạc (TL, t. 499), chiếm được đồn Tiên Lý (phủ Diễn Châu, Nghệ An).

Ngày 3/7/1802 (ngày Quý Mão 4/6/Nhâm Tuất) vua đến thành Nghệ An. Thiếu uý Đặng Văn Đằng, đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng.

Quân tiền đạo tiến đến Thanh Hoa (Thanh Hoá), bắt được con Nguyễn Huệ là đốc trấn Quang Bàn, đổng lý Nguyễn Văn Thận (TL, I, t. 499). Tư mã Nguyễn Văn Tứ đem quân trốn đi.

Đăng Trần Thường đến hành tại, dâng tù bắt được: Con Nguyễn Huệ là Thất, tham đốc Phạm Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ. Sai giết cả. (TL, I, t. 499).

Sai Hoàng Văn Toản, Trịnh Ngọc Trí và Tôn Thất Liêm rước Từ cung [ở Gia Định] về kinh (TL, t. 499).

Phó đô Thống chế Tả dinh Võ Văn Doãn và Chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định bắt được Thiếu Phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An (TL, I, t. 499).

Ngày 13/7/1802 (ngày Quý Sửu 14/6/Nhâm Tuất) vua đến Thanh Hoá.

Bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá (huyện Nông Cống, Thanh Hoá) bắt được Tư đồ Võ Văn Dũng. Sai đóng xiềng giam lại.

Lê Văn Duyệt chiếm Tam Điệp, tới Thanh Hoa Ngoại (tức Ninh Bình), đô đốc Tài đầu hàng.

Ngày 16/7/1802 (ngày Bính Thìn 17/6/ Nhâm Tuất) vua tới Ninh Bình.

Thủy binh của Nguyễn Văn Trương thu phục Sơn Nam Hạ, Trương ở lại trấn giữ.

Ngày 17/7/1802 (ngày Đinh Tỵ 18/6/Nhâm Tuất) vua đến Sơn Nam Thượng (Hà Nội), đô đốc Lê Văn Hoà, hiệp trấn Tín đầu hàng.

Ngày 20/7/1802 (ngày Canh Thân 21/6/ Nhâm Tuất) vua Gia Long vào thành Thăng Long.

Vua Cảnh Thịnh đã bỏ chạy trước cùng với các em là Quang Thuỳ, Quang Duy, Quang Thiệu, tư mã Nguyễn Văn Dụng, tư mã Nguyễn Văn Tứ, đô đốc Tú qua sông Nhị Hà đến Xương Giang (thuộc Bắc Ninh), đêm trú ở chùa Thọ Xương. Dân thôn mưu cướp. Quân đi theo tan vỡ. Quang Thùy thắt cổ tự tử, độ đốc Tú và vợ tự tử. Tất cả bị đóng cũi đưa về Thăng Long (TL, I, t. 504).

Ngày 24/10/1802 (ngày Bính Thân 28/9 Nhâm Tuất) vua rời Thăng Long, để Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn Bắc Thành.

Ngày 27/10/1802 (ngày Kỷ Hợi 1/10 Nhâm Tuất) đến Thanh Hoá yết lăng miếu ở núi Thiên Tôn.

Ngày 10/11/1802 (ngày Quý Sửu 15/10 Nhâm Tuất), vua Gia Long về đến Phú Xuân.

Đặng Đức Siêu làm bài ca Hồi loan cửu khúc.

Trần Quang Diệu bị bắt

Tháng 7/1802, phó đô thống chế Tả dinh Võ Văn Doãn và chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định bắt được Thiếu Phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An.

Thực Lục chép: “Diệu từ Quy Nhơn đem đồ đảng chạy trốn, chui rừng lội suối, gặp các sách Man có ai ngăn giữ thì ra sức đánh gỡ mà qua, trong khoảng vài tháng lương thực cạn hết, quân lính hao tan. Đến sách Quy Hợp, chợt gặp quan quân, tướng sĩ giặc đều mỏi, không thể đánh được. Diệu bèn bị bắt. Bắt được đồ đảng là bọn Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Mân và 76 thớt voi đực. Tin thắng trận báo lên. Vua sai Lê Văn Duyệt đóng xiềng giam lại, dặn không được tự tiện giết. Sau Văn Chiêu ốm, sai giết” (TL, I, t. 499).

“Ngày Quý Sửu [14/6/Nhâm Tuất, tức ngày 13/7/1802] xa giá đến Thanh Hoa[Thanh Hoá]… Bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá (thuộc huyện Nông Cống) bắt được tư đồ giặc là Võ Văn Dũng và 3 người đồ đảng, giải đến hành tại. Sai đóng xiềng giam lại”. (TL, I, t. 500).

Liệt Truyện chép hơi khác:

“Bộ quân của Lê Văn Duyệt, Lê Chất đến sông Thanh Long cướp kho Kỳ Lân. Trấn thủ Nghệ An ngụy là Nguyễn Văn Thận, hiệp trấn Nguyễn Triêm, thuỷ quân thống lĩnh Đại, thiếu uý Đăng bỏ thành chạy đến đồn Tiên Lý (tức thành phủ Diễn Châu), Triêm tự thắt cổ chết, Thận chạy đến Thanh Hoá. Quang Diệu từ Quy Hợp xuống Hương Sơn (Nghệ An), nghe thấy Nghệ An đã phá, bèn qua Thanh Chương sang sông Thanh Long, những người đi theo dần dần tản đi cả. Diệu và vợ là Thị Xuân đều bị quan quân bắt sống; Văn Dũng cũng bị thổ dân Nông Cống (Thanh Hoá) bắt giải. Đại binh đến Thanh Hoá, ngụy đốc trấn là Quang Bàn và Thận cùng Đằng đều xin hàng.” (Liệt truyện II, t. 570-571).

Liệt truyện chép: “Diệu và vợ”, trong khi Thực Lục không nói gì đến Bùi Thị Xuân.

Thực Lục thường vắn tắt kể các dữ kiện, chép những gì thực chính xác. Còn Liệt Truyện kể chuyện, đôi khi có suy đoán thêm.

Vì vậy, việc bắt được Bùi Thị Xuân còn là một tồn nghi. Chưa chắc Bùi Thị Xuân đã bị bắt, bởi trong Thực Lục cũng như Liệt Truyện không thấy nói đến việc Trần Quang Diệu gặp Bùi Thị Xuân ở đâu và chỗ nào.

Số phận vua, quan, tướng lãnh Tây Sơn bị bắt

Sau đây là danh sách những người bị bắt từ tháng 6/1801 đến tháng 7/1802:

Lê Văn Duyệt bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách ở mặt trận Phú Xuân (TL, I, t. 441).

Các em của Quang Toản là: Quang Cương, Quang Tự, Quang Điện và hơn 30 người đàn bà con gái bị đem nộp lấy thưởng, ở Quảng Bình (TL, I t. 442).

Nội hầu Lê Văn Lợi, Thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư bộ Lại Hồ Công Diệu… ra hàng. Vương để Nguyễn Thiếp trở về Nghệ An (TL, I, t. 444).

Đóng cũi Nguyễn Quang Cương, Tham lĩnh Ngoạn, Tham lĩnh Tuân giải về Bình Định. Còn Nguyễn Quang Tự, Nguyễn Quang Điện, phò mã Nguyễn Văn Trị bị giải về Gia Định, rồi sai giết đi. (TL, I, t. 446).

Tháng 6/1801, bắt được Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự, ở bảo Trà Khúc [Quảng Ngãi] đem giải về Kinh. (TL, I, t. 449).

Tháng 11-12/1801 (tháng 10 ÂL.) phụ chính Trần Văn Kỷ đã ra hàng, tìm cách liên lạc với vua Cảnh Thịnh, bị giết. (TL, I, t. 470)

Tháng 12/1801 (tháng 11 ÂL.) “Phá huỷ mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị lăng trì cắt nát thây” (TL. I. t. 473)

Ra bố cáo: “Bắt được con cái tướng tá của Nguyễn Văn Huệ nhiều không kể xiết (…) Nay đã phá huỷ mồ của vợ chồng giặc Huệ, bêu đầu phơi xác. Đồ đảng của chúng bắt được cũng đều giết hết” (TL. I, t. 473).

Tháng 4/1802 (tháng 3 ÂL.) Nguyễn Văn Vân bắt được ba người con của Nguyễn Nhạc là Thanh, Hán và Dũng, đem nộp, sai giết cả. (Thực Lục, I, t. 485).

Tháng 6/1802, bắt được Nguyễn Lân con Nguyễn Nhạc, ở Nghệ An. (TL, t. 499)

Ngày 3/7/1802, thiếu uý Đặng Văn Đằng, đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng ở Nghệ An. (TL, I, t. 499).

Bắt được con Nguyễn Huệ là đốc trấn Quang Bàn và đổng lý Nguyễn Văn Thận ở Thanh Hoá (TL, I, t. 499). Tư mã Nguyễn Văn Tứ đem quân trốn đi.

Đặng Trần Thường dâng tù bắt được: con Nguyễn Huệ là Thất, tham đốc Phạm Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ. Sai đem giết. (TL, I, t. 499)

Tháng 7/1802, Phó đô thống Tả dinh Võ Văn Doãn và Chánh thống Tiền đồn Lê Đức Định bắt được Thiếu phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An (TL, I, t. 499).

Ngày 13/7/1802, bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy và 19 người dân làng Ngọ Xá (huyện Nông Cống, Thanh Hoá) bắt được tư đồ Võ Văn Dũng. Sai đóng xiềng giam lại (TL, I, t. 500).

Ngày 20/7/1802 (ngày Canh Thân 21/6/ Nhâm Tuất) vua Gia Long đến thành Thăng Long. Ra lệnh: “Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú thì được miễn tội, gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5 ngày. Nếu quá hạn mà không ra thú, bị người ta bắt được thì làm tội. Những tàn quân của giặc mang theo binh khí trốn về, thì lập tức phải đến cửa quân trao nộp, nếu cất giấu thì xử theo quân pháp”. (TL, I, t. 503)

Vua Cảnh Thịnh bỏ chạy cùng với các em là Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu và tư mã Nguyễn Văn Dụng, tư mã Nguyễn Văn Tứ, đô đốc Tú, đến Xương Giang (thuộc Bắc Ninh). Quân đi theo tan vỡ. Quang Thùy thắt cổ tự tử. Đô đốc Tú và vợ tự tử. Tất cả bị đóng cũi đưa về Thăng Long. (TL, I, t. 501, Liệt truyện, II, 571)

“Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), bắt được con Nhạc là Văn Đức, Văn Lương, cháu là Văn Đâu (con Văn Đức) đều đem chém ngang lưng. Bấy giờ dòng giống Tây Sơn không còn sót một người nào nữa”(Liệt truyện II, t. 571).

Hành hình

Tháng 11-12/1802 (tháng 11/Nhâm Tuất) làm lễ tuyên cáo võ công.

Ngày 30/11/1802 (ngày Quý Dậu, 6/11 Nhâm Tuất) tế thiên điạ.

Ngày 1/12/1802 (ngày Giáp tuất, 7/11 ÂL.) tế hiến phù (dâng những người bắt được) ở Thái Miếu. Thực Lục viết:

“Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ, áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác. (Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại (sau đổi là Vũ Khổ) năm Minh Mạng thứ 2, đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi. Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cái trong ngoài” (TL, I, t. 513).

Trong bài chiếu gửi toàn dân, có nói rõ tên chức của các quan tướng bị giết: “Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng.”(TL, t. 533).

Bè lũ đầu sỏ ở đây có thể hiểu là một phần hay toàn bộ những người bị bắt đã kể trên. Tướng bị bắt nhưng xét “vô danh” như Đô đốc Đinh Công Tuyết, cũng “không nỡ giết”.

Trên nguyên tắc, người đầu hàng không bị tội, trừ khi, trước đã hàng, sau theo lại Tây Sơn, như thái bảo Phạm Văn Tham, phụ chính Trần Văn Kỷ, tham đốc Phạm Văn Điềm, đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, đều bị giết. Cũng không thấy tên bà Bùi Thị Xuân. Vậy có thể bà đã trốn thoát.

II. Barisy tường thuật các trận Chủ Sơn, Thị Nại, Phú Xuân và vua Gia Long vào Huế

Về những trận giao tranh lớn giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, ngoài những điều ghi trong chính sử nhà Nguyễn, có rất ít tư liệu của các chứng nhân khác, vì lý do: các giáo sĩ không tham dự còn những tướng lãnh, binh sĩ ngày trước không quen viết hồi ký, mà nếu viết cũng bị thất lạc, vì sự bảo tồn di sản văn hoá của chúng ta rất kém. Vì vậy, ngoài Thực Lục, Liệt Truyện, những lá thư của Barisy có một giá trị riêng, bởi đó là cái nhìn của một người ngoại quốc. Tuy Barisy có sự chủ quan của một bầy tôi trung thành, hết sức khâm phục nhà vua, nhưng anh trình bầy trận địa một cách sống động, chi tiết và cặn kẽ, cho ta thấy rõ bối cảnh: hai bên đánh nhau như thế nào, với những vũ khí gì? Sự chỉ huy của vua Gia Long ở mặt trận ra sao? vv… Ngoài ra, Barisy còn đưa những con số về chiến thuyền, khí giới, số quân hai bên, điều này Thực Lục thường không ghi rõ. Tất nhiên độ chính xác vẫn cần được kiểm chứng, nhưng trong chừng mực nào đó, thư Barisy góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu chiến tranh. Chỉ hiềm một nỗi, văn anh rất khó đọc, thường viết liền một hơi, không chấm, phẩy, chia động từ bừa bãi, chữ viết hoa tùy hứng, nên dịch không dễ dàng.

Cadière có công sưu tập những thư này, trích một số và sửa cho dễ đọc hơn, đã in trong tập Documents relatifs à l’époque de Gia Long (BEFEO, 1912, t. 1-82). Mười bốn năm sau, ông làm lại, cho đánh máy đầy đủ các lá thư, đúng như nguyên bản và in lại trong tập Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance(BAVH, 1926, IV, 359-447). Vì vậy, tập tư liệu thứ hai này quý hơn.

Trong phạm vi chương này, chúng tôi không thể dịch hết hai lá thư chính, rất dài; một viết ngày 11/4/1801 gửi cho giáo sĩ Létondal, quản thủ tu viện Macao, trong đó kể trận Chủ Sơn và trận Thị Nại; một viết cho hai giáo sĩ Marquini và Létondal ngày 16/7/1801, kể trận Phú Xuân và vua Gia Long vào Huế. Ba trích đoạn được lựa chọn sau đây là trận Chủ Sơn, trận Thị Nại, trận Phú Xuân và Gia Long vào Huế. Trước mỗi tường trình của Barisy, sẽ có tóm tắt sự kiện theo chính sử; riêng trận Thị Nại, có thêm lời giáo sĩ Le Labousse và thư Chaigneau, như những nhân chứng khác.

Tóm tắt tình hình

Võ Tánh chiếm được Quy Nhơn tháng 7/1799, Nguyễn Ánh đổi thành Bình Định, để Võ Tánh và Ngô Tòng Châu ở lại trấn giữ. Tháng 2/1800 bộ binh của Trần Quang Diệu tiến đánh Thạch Tân [Bến Đá, biên giới Bình Định-Quảng Ngãi], thuỷ binh của Võ Văn Dũng tiến đánh Thị Nại. Võ Tánh đóng cửa thành không tiếp chiến. Trần Quang Diệu đắp lũy dài vây bọc thành Bình Định, chu vi 4.340 trượng, mỗi trượng 2 người tuần giữ, bộ binh vây thêm vài vòng. Võ Văn Dũng để hai thuyền đại hiệu Định quốc và hơn 100 thuyền chiến chặn ngang cửa biển Thị Nại (TL, I, t. 428). Cô lập Võ Tánh và Ngô Tòng Châu trong thành.

Tháng 4-5/1800, Nguyễn Ánh xuất quân từ Gia Định để giải vây Bình Định, quân Nguyễn thắng một số trận, chiếm được Phú Yên, nhưng không thể giải vây được Bình Định. Kể từ tháng 1/1801, cuộc chiến toàn diện bùng nổ khắp các mặt trận. Trận Thị Nại 28/2/1801 có thể coi là trận Xích Bích của Gia Long, làm thay đổi diện mạo chiến tranh cho đến chiến thắng cuối cùng. Trong giai đoạn này, Barisy đã đóng góp một số tư liệu lịch sử quan trọng.

Theo tiến trình thời gian, tháng 4-5/1800, Nguyễn Ánh để hoàng tử Cảnh trấn giữ Gia Định cùng với Nguyễn Văn Nhơn và Nguyễn Từ Châu, xuất quân qua cửa Cần Giờ, đem Minh Mạng, mới 9 tuổi đi theo. Tháng 7-8/1800, thuyền vua đến cửa biển Cù Mông (bắc Phú Yên, giáp giới Bình Định). Cùng trong tháng này, Nguyễn Vương cho Barisy về nước và cấp cho một chiến thuyền (xem chương 19: Barisy). Vua đóng bản doanh ở Cù Mông trong suốt thời gian còn lại, tới khi khởi hành đi đánh Phú Xuân ngày 5/6/1801.

Trong lúc này, Barisy ở đâu? Chúng tôi nghĩ rằng: có thể con người giang hồ Barisy đã không bỏ mặt trận Bình Định Phú Yên, trong thời điểm sôi bỏng này, để “về nước” như vua cho phép, và theo Thực Lục, là “nước Anh” hay “Ấn Độ” vì vẫn coi Barisy là người “Hồng Mao”. Vì thế, rất có thể Barisy đã có mặt ở các trận Chủ Sơn, Thị Nại. Sau chiến thắng Thị Nại ngày 1/3/1801, Barisy mới trở về Sài Gòn, và sau đó, anh bị Botelho vu cáo, trong lúc hoàng tử Cảnh hấp hối.

Cadière dựa vào lá thư Chaigneau viết cho Barisy kể trận Thị Nại, để đoán rằng Barisy ở miền nam Nam Hà; chúng tôi không tin lắm, vì rất có thể Chaigneau cũng không biết Barisy ở đâu, nên đã viết thư cho bạn, nói về chiến thắng Thị Nại.

Barisy kể trận Chủ Sơn

Khi Nguyễn Ánh xuất quân giải vây Bình Định, cử Nguyễn Văn Thành chỉ huy Tiền quân, tiến đánh Phú Yên, nhưng Nguyễn Văn Thành bị khó khăn ở mặt trận Chủ Sơn (giáp giới Bình Định) không cách nào phá được.

Trận Chủ Sơn, theo chính sử, xẩy ra tháng 11 năm Canh Thân [16/12/1800-14/1/1801] và ghi toàn thể công lao vào tay Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt, Đại Nam Nhất Thống Chí tóm tắt như sau: “Núi Phước An ở phiá nam huyện Tuy Viễn [Bình Định], có tên nữa là Chủ Sơn, hình thế cao cả, hùng vĩ, chu vi hơn trăm dặm… Năm Canh Thân, quân giặc giữ Chủ Sơn, Nguyễn Văn Thành đánh mãi không được, dò thám [theo Thực Lục, nhờ người Man (Thượng) dẫn đường] biết được rằng ở phiá tây nam núi này có đường tắt có thể đánh úp mặt sau của giặc, bèn vẽ điạ đồ và xin quân hội chiến, vua bèn sai Tống Viết Phước và Lê Văn Duyệt đem quân tiến đến Thị Dã. Thành sai Duyệt giữ bảo [đồn] làm chính binh, tự mình đem kỳ binh [quân đánh úp] theo đường tắt đi vượt khe Bột, qua trại Đèn, vòng ra mặt sau của giặc, tung lửa đốt trại sách, quân giặc vội vàng quay lại đánh. Duyệt bèn chỉ huy binh sĩ tiến sát đến đồn giặc, hai mặt tả hữu đánh kẹp lại, quân giặc phải tan chạy” (ĐNNTC, tập 3, t. 16-17).

Đó là thoại chính thức, nhưng Barisy kể hơi khác một chút, anh viết: “… Nghe nói quân Tây Sơn gửi một phái đoàn đến [điều đình], việc ấy dám lắm vì họ đang ở trong thế kẹt, rất kẹt; họ cầm cự với quân của vua dưới lệnh tướng Ong Tien Quaoun [Ông Tiền Quân chỉ Nguyễn Văn Thành]: tới ngày 21 tuần trăng thứ 11[ngày 5/1/1801], [Trước đó] nhờ bọn người Man đã tìm được cho vua một lối mòn, đại bác và voi có thể đi qua mà địch quân hoàn toàn không biết. Vua bèn gửi Ong Tong Dong Tag [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt] với một phần quân đội đến sau lưng địch. Sau 7 ngày đường, đến sáng ngày 21 [5/1/1801], lúc mặt trời ló dạng, Ong Tien Quaoun nhìn thấy hiệu của Ong Tong Dong Tag, bèn tấn công dữ dội vào những đồn dung Thi [Đồng Thị, gần Thị Dã] gồm bẩy đồn thẳng hàng để chặn quân ta không tiến được đến gần.

Lệnh xung phong từ lúc mặt trời mọc, mà đến 10 giờ sáng ngụy quân mới thấy quân vua đã đến sau lưng và hai bên sườn. Giàn súng liên thanh (mouquesterie) sử dụng thuần thục và 20 đại bác nhỏ dã chiến, bắn, trong tầm ngắn của súng lục, chỉ chốc lát, đã quét sạch dọn đường. Những kẻ chạy trốn lãnh đủ thương giáo, lưỡi lê; sự tàn sát thực kinh hoàng; quân Theuk Teuk [Túc Trực] hay quân Cảm tử, không chừa một ai, họ chỉ rời chiến trường khi không còn người để giết” (Thư Barisy ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 374).

Barisy mô tả gần đúng như chính sử, nhưng rõ hơn và sống động hơn. Trừ chi tiết: Vua sai Lê Văn Duyệt đi ngả sau đánh tập hậu, còn chính sử lại ghi Nguyễn Văn Thành. Có thể Barisy viêt đúng, vì Lê Văn Duyệt can đảm xông xáo, Nguyễn Văn Thành nhát, chưa chắc vua đã giao việc này. Ngoài ra, theo Barisy, nhà vua đích thân điều khiển trận chiến, việc này chính sử không ghi. Sau đó, Barisy viết tiếp:“Hội đồng chiến tranh của địch, sau thất bại này [trận Chủ Sơn], tưởng họ có thể kích động tinh thần tướng sĩ và và nhân dân bằng cách đánh những cú lớn; bèn hội tụ những đoàn quân thiện chiến nhất và những quan tướng giỏi nhất, quyết định một trận đánh toàn diện. Ngày 27 của tuần trăng thứ 11 [11/1/1801] đại binh tham chiến, có binh đoàn của tướng thống lãnh thủy binh [Võ Văn Dũng] tăng lực lên tới 223 ngàn người. Nhưng con số này không làm cho đấng quân vương của ta sợ hãi. Quân địch thực sự có lợi trên địa thế. Nhưng vua có giàn súng liên thanh; có đại bác, và trên tất cả là tấm lòng ba quân. Chúa thượng tay cầm gươm, dáng vui vẻ, dạo qua các hàng ngũ. Quân ta hết sức nóng lòng. Bên địch đang rung chuyển, đại bác của họ nổ rền; đàn voi của họ hung dữ tiến gần đến hàng ngũ ta. Vua trầm tĩnh đứng giữa quân hộ vệ, quan sát tình hình. Sự im lặng tuyệt đối ngự trị hàng ngũ quân ta. Khi địch tới gần, vào tới 1/2 tầm súng. Vua hạ lệnh cho các toán quân nhả đạn: 400 khẩu đại bác dã chiến khạc lửa sắt và chết chóc, nhả liên hồi trúng đích, thành một cuộc tàn sát kinh hoàng. Phiá họ có những đồn bên sườn và ở phiá đuôi trợ lực; đại bác của họ bắn trúng làm quân ta thiệt hại nặng. Vua ra lệnh cho quân cảm tử trèo lên đánh giáp lá cà; các quan làm gương trước, chiếm được các đồn; quân sĩ chuyển sang gươm giáo và đại bác kết liễu sự tháo chạy toán loạn: địch quân chạy trốn vào thành luỹ phòng thủ. Thấy địch thua chạy, vua bằng lòng [không cho lệnh truy kích] vì quân nhà cũng thấm mệt: sự tàn sát còn kéo dài trong đêm. Vua đóng ở ngoài tầm đại bác (cách xa 1, 2 lần) của thành trì kiên cố của địch. Ngày 21 tháng 12 [4/2/1801] họ còn ra khiêu chiến, vua không rời vị trí phòng thủ của mình. Bấy giờ họ tiến lên đánh giáp lá cà, rất trật tự và chừng mực. Nhà vua, với kính thiên lý (lunette d’approche) trong tay, thấy ở bên cánh phải của họ rất lộn xộn mà lại bị một cái khe chia cắt với trung tâm, có thể dễ dàng cắt đứt. Bèn tức khắc hạ lệnh cho 22 đội cảm tử xuất phát đánh ngay không để cho họ kịp nhận diện. Gió Đông Bắc quạt khói vào mắt, khiến họ không phân biệt được quân nhà vua; chỉ đến khi nhận được những tràng súng đầu tiên, mới hiểu mình lầm. Họ chống mạnh; nhưng vua ở đâu, là có chiến thắng ở đó. Chiến thắng toàn diện: khi vua xuất trận, giữa quân cấm vệ, lại được hoả lực kinh hồn của giàn súng phòng thủ che chở, thì quân địch phải bại. Địch quân mất 5 trong số những quan tướng giỏi, cả tướng chỉ huy cánh phải. Quân đội nhà vua không tha ai cả, vì thế, sự tàn sát thật là kinh hoàng” (Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 375).

Trận chiến này, chỉ xẩy ra có 6 ngày sau trận Chủ Sơn, chiếu vào Thực Lục thì có thể đây là những trận tiếp theo Chủ Sơn, Nguyễn Văn Thành đánh Trường Dã (Đồng Dài), Tống Việt Phước đánh Yên Tượng… chiếm được hết các đồn từ núi Lệ Thạch đến An Hoa, An Lộc… (TL, I, t. 422). Nhưng Thực Lục không nói gì đến sự hiện diện của Nguyễn Vương, Phải chăng là một thiếu sót? Ta lại biết, khi hành quân ra Bình Định-Phú Yên, Nguyễn Ánh đóng bản doanh ở Cù Mông, gần đấy. Vậy rất có thể Barisy viết đúng: Nguyễn Ánh trực tiếp điều khiển các trận đánh chăng?

Vẫn theo Barisy, vì chiến bại này, mà quân Tây Sơn chuẩn bị một lực lượng quân tiếp viện ở Cù Mông để đánh Nguyễn Ánh bằng đường biển, nhưng bị nhà vua khám phá và giải tán; rồi Nguyễn Vương tấn công trước, do đó, mà có trận Thị Nại 1801, Barisy viết: “Từ khi đó, còn nhiều trận đánh khác mà quân chiến thắng của Hoàng Thượng đã tỏ sự can trường của họ. Sau cùng, ngày 1 tháng giêng[13/2/1801], các tướng thuỷ bộ [địch] họp đại hội đồng quyết định tấn công nhà vua bằng đường biển. Họ sửa soạn thuỷ binh trong cảng Cum-ong [Cù Mông] chỉ cách Quy Nhơn 20 dặm: cho lên tầu một đội tiếp viện quan trọng toàn quân thiện chiến. Nhà vua biết rõ dự định của họ, bèn liền tức khắc, cho quân xuống lại hạm đội, dùng rào chặn cửa biển và dùng giàn hoả lực đặt đúng chỗ, tước đoạt ý định của địch quân; nhưng riêng ông, ông đã dự tính chương trình tấn công. Và ông đã thực hiện với sự lớn lao của tâm hồn và lòng can đảm của những Nelson, Duncan, Hood, Rodney, vv…” (Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi cho M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 375-376).

Liền sau đó là trận Thị Nại 1801.

Trận Thị Nại 1801, theo Đại Nam Thực Lục

Kể từ tháng 5/1800, Nguyễn Ánh xuất quân đi đánh Tây Sơn, thắng một số trận, nhưng vẫn không thể giải vây được Bình Định để cứu Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ trong thành. Đầu năm 1801, chiến thuật đánh hoả công của Đặng Đức Siêu đã sửa soạn xong, Nguyễn Ánh quyết định tấn công hải quân Tây Sơn đóng ở cửa biển Thị Nại. Thực Lục viết: “Trước là Tư Đồ giặc Võ Văn Dũng dùng hai chiếc thuyền đại hiệu Đinh quốc và hơn trăm chiếc thuyền chiến chặn đóng ngang cửa biển, lại dựng hai bảo [đồn] ở bãi Nhạn Châu bên tả và ở núi Tam Toà bên hữu cửa biển, đặt nhiều súng lớn, dựa thế cao, chẹn chỗ hiểm để chống quân ta. Đến đây các quan làm xong chiến cụ hoả công, vua mật định đêm hôm 16 [28/2/1801]cất quân đánh úp. (…) Lưu Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông. Vua bèn thân chinh đem thuỷ quân tiến phát. Trống canh ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lên trước vào Hổ Cơ đốt đồn thủy của giặc. Lại sai Võ Di Nguy đi thuyền chấp lệnh thẳng tiến, Lê Văn Duyệt đốc quân tiếp theo. Giặc giữ bảo[đồn] cự chiến từ giờ DẦN [3-5 giờ sáng] đến giờ NGỌ [11-13 giờ trưa] tiếng súng vang trời đạn bay như mưa. Võ Di Nguy bị bắn chết, Duyệt cứ mặc kệ, càng thúc đánh hăng. Vua thấy sĩ tốt nhiều người tử thương, cho tiểu sai đến dụ cho tạm lui. Duyệt thề chết vẫy quân xông lên, giờ THÂN [15-17 giờ chiều] lọt vào được cửa biển, dùng đuốc hoả chiến thừa chiều gió phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết. Quân ta bèn giữ cửa Thị Nại. Người ta khen trận này là võ công to nhất”(TL, I, t. 428-429).

Về Nguyễn Văn Trương, Liệt Truyện viết rõ hơn: “Nguyễn Văn Trương tiên phong, bắt được lính tuần của Tây Sơn, biết khẩu hiệu, Trương bèn cho thuyền nhỏ lẻn vào Tiêu Ki, trèo qua thuyền lớn của địch, đến miếu Tam Toà, chém được đô đốc Trà, đốt rất nhiều thuyền địch” (LT, II, t. 147).

Sự tường trình của Thực Lục có những chỗ không ổn, chúng tôi sẽ nói rõ ở dưới.

Trận Thị Nại, theo Le Labousse

Giáo sĩ Le Labousse là một trong những người hiếm hoi viết lại trận Thị Nại, tuy ông không trực tiếp tham dự, nhưng lúc ấy ông ở Khánh Hoà, chắc được những người dự trận kể lại: “… Chiến thắng lừng lẫy nhất, sẽ mở một kỷ nguyên mới trong lịch sử biên niên của Nam Hà, là chiến thắng mới đây nhà vua vừa đạt được trên thuỷ quân của địch ở cảng Quy Nhơn, chỗ bản đồ đề tên là Chine-Chine [Thị Nại]. Chính ở đó, cách đây 7, 8 năm, ông đã đốt thuỷ quân của người anh cả của địch [Nguyễn Nhạc]. Ông vừa tái tạo chiến công này lần thứ hai, hôm 1/3 vừa qua.

Sau đây là vị trí thuận lợi của hải quân bên địch: ngoài chuyện cửa biển rất hẹp, được bảo vệ bằng nhiều thành đồn, không có cách nào vào được; họ còn để ba chiến hạm lớn nhất chặn cửa biển, mỗi chiến hạm có ba giàn đại bác nòng súng rất lớn, những chiến thuyền còn lại được xếp làm sao cho không ai có thể len vào được.

Vì thế nhà vua không đem các chiến hạm lớn đến. Ông để chúng lại ở một vịnh nhỏ bên cạnh [Cù Mông], và chỉ dùng 26 chiến thuyền ga-le (galères: thuyền vừa buồm vừa chèo) với 100 ghe nhẹ (bateaux légers), nói đúng ra là 100 xà-lúp (chaloupes); [tất cả] chở khoảng bốn nghìn người. Quả là không nhiều để tấn công một hải cảng, lúc đó, cả thuỷ binh lẫn quân lính đồn trú có tới hơn 20.000 người, 60 thớt voi, 40 chiến hạm lớn; 20 chiến hạm nhỏ hơn; 100 chiến thuyền ga-le (galères), và một con số lớn hơn, các ghe chiến khác, trang bị đầy đủ vũ khí. Nhưng sự can đảm trám khuyết những con số.

Vua tiến trước mắt quân địch, đến đêm tới trước cửa cảng, họ đứng vững đợi. Một trăm ghe nhẹ chở quân, cho đổ bộ, khá xa. Trong lúc đó, những chiến thuyền ga-le, nhờ bóng tối và gió thuận chiều phụ giúp, tiến đến những chiến hạm đầu tiên, nhẩy sang đánh giáp là cà và đốt cháy. Quân xuyên sâu vào trong cảng, ném khắp nơi những nắm đuốc và đủ loại các chất cháy. Bấy giờ sự tàn sát trở nên kinh hoàng. Đạn bắn tứ phiá, từ các đồn luỹ, từ các chiến hạm; trận mưa đại bác rú vang rền trên đầu mọi người. Khắp nơi lửa cháy, lửa thiêu hủy ga-le và chiến hạm địch, cái thì nổ, cái thì chìm. Cả hai bên đều chiến đấu kịch liệt. Ngụy quân, tầu đầy lửa mà các giàn súng vẫn kiên trì chống trả, cho tới khi lửa lan vào thuốc súng, tất cả biến mất trong một tiếng nổ chát chúa chung cục. Sau cùng, quân ta, nhờ khôn khéo kết hợp với can đảm, đã thắng, đã thực hiện những sự phi thường. Cho tới bấy giờ, người ta chưa thấy ở Nam Hà trận đánh nào dai dẳng đến thế, đẫm máu đến thế. Nó đã diễn ra từ 10 giờ tối tới 10 giờ sáng hôm sau, địch không còn lại một con tầu nhỏ bé nào. Tất cả đều đã bị đốt sạch.

Những sĩ quan Pháp, các ông Chaigneau, Vannier, và De Forçanz, điều khiển các tầu le Dragon [Long Phi], le Phoenix [Phượng Phi] và L’Aigle [Bằng Phi]cũng đi chiến dịch này.

Mỗi người với tầu của mình, trang bị khí giới, có nhiệm vụ hộ tống vua và đi kèm tất cả những thuyền chiến ga-le.

Nhưng lúc đánh nhau, họ bị giữ lại để hộ tống vua. Khi nghe tiếng đại bác nổ, máu Pháp sôi sục trong huyết quản, vua phải nghiêm cấm mới cản được lòng nhiệt thành của họ. Giữ họ lại bên vua còn khó hơn là thúc quân tiến lên giữa những trận mưa đại bác. Ông de Forçanz đã không dằn lòng trước cơn hăng say chiến đấu; lòng can đảm thúc đẩy, đang đêm lẻn vào cảng một mình đốt hết bẩy tầu chiến trang bị khí giới nhiều nhất.

Các ông Vannier và Chaigneau cũng có thể làm được như thế, nếu nghe theo lòng can đảm, nhưng các ông nhớ ra rằng, mình có nhiệm vụ canh gác cho cả một vương quốc, qua sinh mạng nhà vua.

Họ tiến vào [cảng] với vua lúc rạng đông; từ một đồn còn giữ được địch câu đại bác nhưng đạn rơi xuống nước trước mũi thuyền ga-le của vua, rồi bật lên cao cách đầu ông độ 50 phân tây. Ít lâu sau, họ rút lui cùng với tàn quân, họp lại với bộ binh của họ. Không thể tưởng tượng được bao nhiêu mất mát của địch trong cuộc chiến này: tất cả những gì quý báu họ đều để trên tầu. Đại tướng, là quan đại thần ở Bắc [Tư Đồ Võ Văn Dũng] đến lúc trời sáng mới thấy nhà vua với một nắm quân và vài ga-le khốn nạn, đã làm tan ra tro một thuỷ quân hùng hậu và làm chủ được hải cảng mà họ tưởng không thể nào xâm chiếm được, ông lên cơn điên lăn lộn trên bụi tro như một kẻ rồ dại. Hiện nhà vua đã cho thợ lặn chỗ các tầu chìm, vớt được 500 khẩu đại bác cỡ lớn và vô kể vũ khí khác…” (Doc. Rel., BEFEO, t. 45-47).

Le Labousse, chắc chắn đã được con chiên hai phiá tham dự cuộc chiến kể lại, cho nên ông biết rõ cả về phiá Tây Sơn. Ông viết trận chiến diễn ra từ 10 giờ tối tới 10 giờ sáng hôm sau, và ông ghi ngày 1/3/1801. Ông cho biết vì cửa biển hẹp, vua không đem các chiến hạm lớn đến, và ở đoạn sau, ông lại nói thuyền ga-le của vuavậy những thuyền đại hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi đỗ lại ở cửa biển bên cạnh [chắc chắn là Cù Mông, do tướng Phạm Văn Nhơn cai quản]. Ta có thể xác định rằng: Vannier, Chaigneau, De Forçant, dự trận, phò vua, bằng thuyền ga-le chứ không đi tàu chiến bọc đồng.

Đó là những lời Le Labousse viết cho giám đốc Viện Thừa sai Paris, từ Bình Khang ngày 20/4/1801 về trận Thị Nại. Năm ngày sau khi viết lá thư này, giáo sĩ Le Labousse mất tại Nha Trang, hôm 25/4/1801.

Trận Thị Nại 1801, theo Chaigneau

Trong thư gửi cho Barisy ngày 2/3/1801, Chaigneau tường thuật trận Thị Nại như sau:

Ngày 19 tuần trăng thứ nhất hay là ngày 2/3/1801

Barisy thân mến,

Ta vừa đốt sạch thuỷ quân của địch không sót một tầu nhỏ nào. Trận chiến đẫm máu nhất chưa từng có ở Nam Hà. Quân địch chống trả tới chết. Quân ta đánh giỏi hơn. Bên ta có rất nhiều người chết và bị thương, nhưng chẳng đáng gì so với thắng lợi mà nhà vua đạt được. Các anh Vannier, Forsanz và tôi cùng tham dự, và cùng trở về bình an vô sự.

Trước kia, khi chưa thấy hải quân của địch, tôi có ý coi khinh, nhưng tôi bảo đảm với anh là tôi lầm: họ có những chiến hạm chở tới 50, 60 đại bác cỡ lớn.

Nhà vua sẽ đi đánh Hoàng Cung [Huế], người chắc chắn ở đó chẳng có sự kháng cự nào. Những người lính Tây Sơn chắc rất mất tinh thần; nhiều người muốn ra hàng, nhưng ta từ chối. Vua cho phép họ sống yên lành ở nhà mà không phải đánh nhau nữa.

Năm nay chúng tôi không về Sài Gòn. Nhà vua gửi tất cả những chiến hạm lớn đi chở gạo cho người.

Thời giờ gấp gáp, tôi không nói được dài hơn… “

Xin anh báo tin này cho ông Liot”

  1. B. Chaigneau” (Cadière, Doc. Rel. t. 39-40)

Lá thư của Chaigneau viết rất sơ sài về nhiệm vụ của ông: Các anh Vannier, Forsanz và tôi cùng tham dự, và cùng trở về bình an vô sự. Điều này xác định: Trong trận tàn sát kinh hoàng này, Chaigneau và các bạn không trực tiếp xông trận, chỉ giữ vị trí tháp tùng vua.

Trận Thị Nại 1801, theo Barisy

Lá thư viết ngày 11/4/1801 gửi giáo sĩ Létondal, quản thủ tu viện Macao, sau đoạn kể trận Chủ Sơn, Barisy viết về trận Thị Nại 1801 (Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance (BAVH, 1926, IV, 376-379).

Trước hết, Barisy kê khai danh sách quân đội hai bên tham chiến.

Barisy viết:

“Quân đội địch dưới lệnh của đô đốc Thiuu Phõo[1]gồm có:

Tầu Đại bác đạn nặng Người
9 tầu lớn (vaisseaux) 60 đại bác 24 livres 700
5 tầu 50 24 600
40 tầu 16 12 200
93 thuyền chiến ga-le (galères) 1 36 150
300 ghe đại bác (chaloupes canonnières) 1 50
100 ghe chiến (lugger cochinchin) 70
Tổng cộng: 673 [547]

Dinh quân thứ 3 (3e division) của Vua [chắc là Trung quân] gồm có:

Thuyền Đại bác Người
26 ga-le chở 1 200
65 ghe đại bác chở 1 80

Ngày rằm, 15 tháng giêng (le jour du Rabbin 15 de la 1e Lune) [27/2/1801]theo lệ, tất cả các hạm đội thao diễn tập trận. Một cơn gió Nam thổi mặt nước nối lại như một tấm gương đã khiến vua nẩy ý cho một dinh quân nhổ neo và ngài cũng lên thuyền, dưới lệnh có các tướng: đô đốc Ong Tong Thoui [Ông Tổng Thuỷ tức Võ Di Nguy] mà người Bồ gọi là Bouche-Torte [Miệng Méo]; Ong Yam Koun[Ông Giám quân], không phải cái ông đi sứ với Đức Giám Mục [chỉ Phạm Văn Nhơn, đi với hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc sang Pondichéry], ông này trước theo ngụy quân, rồi khi vua ở Xiêm về, ra hàng [tức Nguyễn Văn Trương]; ông tướng Ong Tong Don Tag [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt] là một trong những ông tướng Theuk Tuc [Túc trực] tức bộ binh thiện chiến, lính cảm tử. Có các ông Forcans, Vannier và Chaigneau.

Tới 2 giờ rưỡi chiều, đoàn chiến hạm 91 cánh buồm này khởi hành để đi tấn công một quân đội khoảng 50.000 người và 45.000 quân đổ bộ và quân canh gác các đồn phòng vệ cửa biển.

Đến chiều tối, khi đoàn chiến hạm tới đúng tầm súng của đảo Ong Datte [Hòn Đất], hoàng Thượng ra hiệu cho Ong Tong Don Tag [Lê Văn Duyệt] chuẩn bị 1.200 quân Theuk Tuc [Túc Trực] đổ bộ lên bãi cát. 7 giờ [tối], việc đổ bộ bắt đầudưới lệnh của quan Ong Fo Vé Theuk Tuc [Phó Vệ Uý Túc Trực]. Họ đi trong sự yên lặng hoàn toàn, dọc theo bãi cát, đến gần giàn súng đại bác của đồn địch mà không bị lộ.

Tới 10 giờ rưỡi, [thuyền] Vua đã tiến đến 4/3 tầm đại bác ở các đồn canh cửa biển. Địch vẫn không hay biết, vua gửi đội tiên phong gồm 62 ghe chở đại bác (chaloupes canonnières), với lệnh xung kích ba chiến hạm đầu tiên, leo lên đốt tầu và cắt dây neo, gây hỗn loạn trong hạm đội địch. Gió to và thủy triều lên mạnh, thuận lợi cho dự trình này: Ong Yam Quoun [Nguyễn Văn Trương] thi hành mệnh lệnh. Đúng 10 giờ 30, ông bắn phát súng đại bác đầu tiên. Lập tức Vua hạ lệnh tổng tấn công. 26 thuyền chiến ga-le bắn liên hồi khắp nơi trên bãi cát để quyét sạch. 1.200 lính của ta tay cầm súng đầu có lưỡi lê, tấn công sau lưng những người nấp trên bãi cát, đánh úp tất cả những gì còn lại, chĩa thẳng đại bác về phiá lòng trong bến cảng.

Bấy giờ, Vua ra lệnh cho tất cả ga-le cùng xông vào và tấn công cùng một lúc theo đúng trật tự trận đồ. Lúc đó, sự quần thảo mới trở nên đẫm máu và phải nhìn vua mới biết: Số mệnh của ông phụ thuộc vào trận chiến này. Đồn Tam Toy [Tam Toà]gây mối kinh hãi cho những ga-le của vua, rơi vào tầm đạn của họ là tan tành ngay. Ong Tong Thoui [Võ Di Nguy] trúng đạn đại bác mất đầu. Cái chết này làm cho quân sĩ loạng quạng. Một chiếc ga-le thất trận, Ong Tong Dong Tag [Lê Văn Duyệt] sai người đến chém đầu thuyền trưởng, đốt ga-le và ra lệnh tiến lên những chiến hạm neo ở phía Núi Đông, đốt chứ không chiếm. Lệnh này được thi hành với sự mau lẹ, can đảm và cẩn trọng.

Trong thời gian này, tướng Yam Quoun [Nguyễn Văn Trương], sau khi đã đốt ba tầu đầu tiên ở cửa vào, đã len được vào giữa hai hàng [thuyền] của địch quân, đến tấn công đoạn đuôi những ga-le của họ, đang chuẩn bị đến cứu các hạm đội. Địch quân ngạc nhiên vì bị tấn công ở chỗ họ không ngờ! Đầu thì tê liệt bởi giàn súng đại bác ở trên bãi cát, đã bị ta chiếm được. Họ đâm lưỡng lự. Ong Yam Quoun[Nguyễn Văn Trương] bèn đốt vài ghe pháo của chính mình: những người ở đầu của địch quân, tưởng các tướng lĩnh phiá sau, bán mình, làm phản, theo vua. Lòng cam đảm của họ bắt đầu lung lay. Ong Yam Quoun đã làm một chuyện phi thường: đánh một còn, một mất; ông đã vào quá sâu để có thể lùi. Lính của ông cũng thế, như một đoàn hổ, không còn biết gì nữa. Lửa cháy và tiếng súng đại bác làm cho đêm nay là một trong những đêm kinh hoàng nhất, chỉ có thể cảm thấy mà không thể diễn tả nổi. Tới 4 giờ sáng, lửa cháy trên tất cả các chiến hạm. Đến rạng đông, một phần lớn đã nổ trên không với tất cả thuỷ thủ… Những ga-le và ghe pháo, còn cầm cự được tới 2 giờ rưỡi chiều ngày 16 tháng Giêng, năm Cảnh Hưng thứ 62 [28/2/1801].

Vua bị thiệt hại nặng: 4.000 người chết. Nhưng sự mất mát của địch quân còn lớn lao không thể so sánh được: họ mất ít nhất 50.000 người; tất cả lực lượng thủy binh kinh hồn của họ; tất cả thuyền bè chuyên chở gồm 1.800 cánh buồm; 6.000 khẩu đại bác đủ loại tầm cỡ; vũ khí đạn dược, lương thực vô kể. Vàng, bạc, châu báu của các tướng sĩ tràn đầy, đều làm mồi cho sóng nước” (t. 375- 379).

Lời thuật của Barisy thực rõ ràng. Barisy bắt đầu bằng sự xác định giờ xuất phát:

Ngày rằm tháng Giêng, tức ngày 27/2/1801, vua duyệt binh, nhân thấy gió Nam thổi gợn sóng mới nẩy ý đem một dinh quân [Trung quân] đi chinh phạt. Chỗ này Barisy hơi tiểu thuyết hoá, vì trước anh đã nói là vua sửa soạn chương trình đánh rồi, còn việc sẽ đánh hoả công theo chiến thuật của Đặng Đức Siêu, thì mọi người đều biết cả.

Theo Barisy, 2 giờ rưỡi chiều ngày 27/2/1801, hạm đội của Gia Long bắt đầu khởi hành từ Cù Mông, và theo bản thống kê của Barisy, không có thuyền đại hiệu tham dự. Vậy chắc chắn vua đi thuyền chiến ga-le. Chiều tối, hạm đội đến ngang tầm đảo Hòn Đất (trên bản đồ Barisy đề là Ile ong Datte), vua ra lệnh cho Lê Văn Duyệt đổ bộ 1200 quân cảm tử lên bãi cát. 7 giờ tối quân bắt đầu đổ bộ. 10 giờ rưỡi tối, thuyền vua tới cửa biển Thị Nại. Vua hạ lệnh cho 62 ghe đại bác tiên phong, xung kích ba chiến hạm đầu tiên của Tây Sơn, chắc là các tầu đại hiệu chắn ngang cửa biển. Đúng 10 giờ rưỡi, giám quân Nguyễn Văn Trương bắn phát súng đại bác đầu tiên, vua hạ lệnh tổng tấn công. 26 ga-le bắn liên hồi, quét sạch quân đồn trú của Trần Quang Diệu nấp trên bãi cát, dọn đường cho quân cảm tử của Gia Long vừa đổ bộ, xông lên… Điểm đặc biệt là Barisy trình bày rõ ràng chiến thuật của Nguyễn Văn Trương, Thực Lục có nói đến Tiêu Cơ, Tiêu Ki, người đọc không biết là đâu, nên không hiểu được; Barisy viết rất rõ: Nguyễn Văn Trương (đã tra hỏi quân canh gác Tây Sơn bị bắt, biết trước mật khẩu của Tây Sơn) len được vào giữa hai hàng ghe của đối thủ, tiến đến đốt phá đằng cuối, làm quân Tây Sơn rối loạn. Tóm lại, sự tường thuật của Barisy rõ ràng, mạch lạc và hợp lý hơn những văn bản khác.

Những điểm lộn xộn trong Thực Lục

Thục Lục cho biết trận đánh bắt đầu tử nửa đêm: “Trống canh ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lên trước vào Hổ Cơ”. Trước hết, chúng ta không biết rõ Tiêu Cơ và Hổ Cơ ở đâu, nên khó hình dung trận chiến. Nhưng nhờ Barisy, ta có thề hiểu được Thực Lục: Trận đánh bắt đầu từ nửa đêm 28/2/1801, Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương biết được mật lệnh của Tây Sơn, lẻn vào bên trong cùng của vịnh, là Hổ Cơ, đốt đồn thuỷ của địch. Võ Di Nguy và Lê Văn Duyệt đánh mặt trước. Võ Di Nguy tử trận. Nhưng Thực Lục lại viết: “Duyệt thề chết vẫy quân xông lên, giờ THÂN [15-17 giờ chiều] lọt vào được cửa biển, dùng đuốc hoả chiến thừa chiều gió phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết”.

Chỗ vô lý là đây: Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương đốt thuyền “giặc” từ trống canh ba (nửa đêm) 28/2, mà đến giờ thân chiều hôm sau, tức là 4-5 giờ chiều ngày 1/3, Lê Văn Duyệt mới vào được cửa biển Thị Nại và đốt các tầu chiến đại hiệu, lúc ấy Võ Văn Dũng mới thua. Vậy trong suốt thời gian từ 12 giờ đêm hôm trước đến 17 giờ chiều hôm sau, trận chiến xẩy ra như thế nào? Theo Thực Lục thì phần cốt yếu xẩy ra ban ngày, vào 4-5 giờ chiều hôm sau, lúc Lê Văn Duyệt dùng hoả công đốt thuyền địch, Võ Văn Dũng mới thua, vậy trận này kết thúc lúc mấy giờ?

Trái hẳn với những tài liệu khác, đều kể trận đánh xẩy ra ban đêm, mà đỉnh điểm là 3-4 giờ sáng. Le Labousse cho biết trận đánh diễn ra từ 10 giờ tối tới 10 giờ sáng hôm sau. Và ông còn cho nhiều thông tin khác, cùng chiều: vua tiến vào cảng lúc rạng đông. Võ Văn Dũng khi trời sáng mới thấy thực trạng quân Nguyễn chẳng có bao nhiêu mà thắng.

Barisy, cũng viết: tới 4 giờ sáng, lửa cháy trên tất cả các chiến hạm và “đến rạng đông, một phần lớn đã nổ trên không với tất cả thuỷ thủ” Chỉ còn lại một số ghe pháo nhỏ, cầm cự được tới 2 giờ rưỡi chiều hôm sau.

Vậy, Thực Lục viết sai, hay là dịch giả Thực Lục dịch sai, hoặc cố tình sửa giờ TÝ thành giờ NGỌ để biến đêm thành ngày?

Thực Lục đặt trận này vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng Giêng (tức là đêm 28/2 rạng ngày 1/3).

Barisy đặt trận này vào đêm rằm tháng Giêng, rạng ngày 16 (tức là đêm 27/2/1801 rạng ngày 28/2/1801) sự việc này chưa biết thế nào, cần phải đọ lại với các tài liệu khác. Le Labousse ghi ngày 1/3, vậy có thể Thực Lục và Le Labousse đúng.

Tuy đại thắng thuỷ binh cũa Võ Văn Dũng ở trận Thị Nại 1801, nhưng Nguyễn Vương vẫn không phá được vòng vây của Trần Quang Diệu bao quanh thành Bình Định để giải cứu Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ trong thành. Theo kế của các tướng, Nguyễn Vương đem quân đánh Phú Xuân trước.

Trận Phú Xuân, tóm tắt theo Đại Nam Thực Lục

Ngày 5/6/1801, Nguyễn Vương xuất quân ra cửa Thị Nại.

Ngày 7/6/1801 thuyền vua tới Cù Lao Chàm. Gọi Nguyễn Văn Trương tới Đà Nẵng chờ lệnh.

Sai Tống Viết Phước, Trần Văn Trạc giữ Quảng Nam.

Ngày 8/6/1801, Nguyễn Vương tới Đà Nẵng họp với các tướng, quyết định đánh Phú Xuân theo chiến lược Đặng Đức Siêu: Thuỷ quân tiến làm hai đạo; một vào cửa Eo (cửa Thận An); một vào cửa Tư Dung (tức Tư Hiền).

Ngày 9/6/1801, chia nhiệm vụ: Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhơn tiến vào cửa Eo [Thuận An]. Hoàng Văn Tự và Bạch Văn Đoài đem binh voi theo đường bộ Cu Đê. Thuyền vua tiến đóng vũng Chu Mãi.

Ngày 11/6/1801, Nguyễn Vương tiến vào cửa Tư Hiền, Lê Văn Duyệt và Lê Chất tiên phong. Phò mã Tây Sơn Nguyễn Văn Trị và đại đô đốc Trần Văn Tạ giữ núi Quy Sơn, cho đóng cọc gỗ dưới lạch sông để ngăn quân Nguyễn. Quân Tây Sơn ở trên cao bắn đại bác xuống, quân Nguyễn đánh suốt ngày không tiến được. Đến đêm, bèn sai quân ngầm đội mấy chục thuyền chiến, vượt bãi cát vào phá Hà Trung sau lưng địch, chia quân theo đường lạch, nhổ cọc mà tiến.

Ngày 12/6/1801, Nguyễn Vương đốc quân đến bến đò Trừng Hà, Lê Văn Duyệt bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách. Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhơn tiến vào cửa Thuận An, vua Cảnh Thịnh đem đại quân ra chống đỡ, nhưng chưa đánh, đã bỏ chạy.

Ngày 13/6/1801, Nguyễn Ánh vào Phú Xuân. Cảnh Thịnh chạy ra Bắc (TL; I, t. 440-442).

Trận Phú Xuân, tháng 6/1801, theo Barisy

Ý muốn thuật lại những giờ phút lịch sử mà anh đã sống qua, chính là động cơ thúc đẩy Barisy viết nhanh và viết nhiều trong khoảng thời gia khá ngắn ngủi, sôi nổi kể lại những gì anh đã thấy. Trong lời mở đầu lá thư dài, viết cho các linh mục Marquini và Létondal ngày 16/7/1801, trên tầu Thoai phon Thoai [tầu Thoại Phụng] ngày 16/7/1801, tại Cua Heou [Cửa Hậu hay Cửa Thuận An], Barisy giải thích:

“Thưa các cha,

Tính cờ một thuyền buồm ở Quảng Đông lại đến bến cảng này [Huế], đúng lúc những đoàn quân chiến thắng của Hoàng thượng đến chiếm. Con cháy bỏng lòng ham muốn thuật cho các cha biết những gì đáng kể đã xẩy ra ở đây, từ lúc bắt đầu mở chiến dịch, đã khiến con tìm hết cách giúp ích vị thuyền trưởng thuyền này. Và con nghĩ ông ta đủ biết ơn con, để mang thư này tới tay các cha.

Lá thư cuối cùng con viết ngày 10/5 vừa qua [Cadière cho biết: không tìm thấy thư này] con đã kể cho các cha nghe việc chiếm Đà Nẵng ngày 8/3[1801]: quân đồn trú gồm 30 thớt voi, 84 đại bác đồng đỏ, các kho gạo của địch quân bị cháy cùng nhiều kho quần áo và cả tiền bạc, nhưng đó mới chỉ là sự mở màn trận tấn công lớn của nhà vua”.

Và sau đây là những hàng Barisy viết cho hai vị linh mục về trận Phú Xuân: “Ngày 28/5 quân đội của Tàa Quoun [Tả Quân] mà tôi [từ đây xin dịch là tôi thay vì con]trực thuộc, theo lệnh của Ong foo Thuoon [Ông Phó Tướng, Cadière chú thích theo CI. E. Maitre, Nguyễn Công Thái] đến Quy Nhơn. Hoàng thượng duyệt quân, có 10.900 người thuộc bộ binh: 27 chiến thuyền ga-le, rất nhiều ghe chở đại bác. Quân ta ở lại Quy Nhơn tới 3/6 mới khởi hành đi Đà Nẵng. Vua lãnh đạo cả quân Thủy Bộ, tôi ở dưới lệnh vua, với tư cách thuyền trưởng tầu mang hiệu kỳ thống lĩnh của vua:

Thoai Phâon Toai [tầu Thoại Phụng] chở 36 đại bác
15 tầu chở 18 đại bác [đạn nặng] 12 livres
45 chiến thuyền ga-le chở 1 đại bác, 36 livres
300 ghe nhỏ đại bác chở 1 đại bác, 4 livres

Trong binh đội này, có 15.000 người thuộc quân đổ bộ, dưới lệnh của các tướng:

Dinh Táa [Dinh Tả, có lẽ là Chánh tả chi Tả quân Bạch Văn Đoài]; Dinh Tiên[Dinh Tiền, có thể là Lê Chất]; Ong Ton Don Tàa [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt].

Ngày 7/6 chúng tôi đến Đà Nẵng, gặp lại thuỷ binh do ông Yam Quoun [tức Giám Quân Phạm Văn Nhơn, khi đánh trận Thị Nại, Phạm Văn Nhơn được lệnh giữ Cù Mông], ông này đã đi đại sứ ở Âu Châu [chỉ việc Phạm Văn Nhơn tháp tùng Hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc sang Pondichéry], gồm có:

Thao Loan Phi [Long Phi] 32 đại bác Chaigneau [điều khiển]
Thao Baon fi [Bằng Phi] 26 đại bác Forsan [de Forcant]
Thoo Fhoan [Phượng Phi] 26 đại bác Vannié [Vannier]
3 tầu chở 18 đại bác, 12 livres
30 ghe chở 1 đại bác

Tóm lại, theo bảng trên của Barisy, đại binh từ Quy Nhơn kéo ra Đà Nẵng gồm hai phần: Phần đi từ Thị Nại, có vua ngự trên tầu Thoại Phụng, mà Barisy cũng có mặt trên tầu. Đến Đà Nẵng gặp lại phần thủy binh đi từ Cù Mông, do Phạm Văn Nhơn điều khiển, có các tầu đại hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi. Đại binh này, sẽ họp với thủy binh của Nguyễn Văn Trương và đô đốc Hoàng Văn Tự, vừa thắng trận Đà Nẵng tháng 3-5/1801, rồi chia làm ba đạo đi đánh Phú Xuân: Hoàng Văn Tự và Bạch Văn Đoài đem binh và voi đi đường bộ Cu Đê. Thuỷ binh chia làm hai đạo, vào cửa Thuận An và cửa Tư Hiền, Barisy mô tả trận thuỷ chiến, như sau:

4 giờ sáng ngày 9/6, toàn bộ binh đội xuống tầu [ở Đà Nẵng].

8 giờ sáng ngày 11, chúng tôi đến cửa sông Hương, vào tầm súng của đại bác các đồn phòng thủ cửa sông. Quân đội được lệnh chia hai: Tất cả những tầu chiến và 30 ghe chở đại bác họp thành một đội ngũ dưới lệnh ông Yam Quoun [Phạm Văn Nhơn] phong toả cửa Tây, có tên là Cua Heou[2]. Cửa Đông có tên là Cua Ong[Cửa Tư Hiền] do vua và các tướng nói ở trên [tức Lê Văn Duyệt và Lê Chất]tấn công; dưới lệnh có 45 chiến thuyền ga-le; 300 ghe chở đại bác, và 15.000 quân đổ bộ.

5 giờ sáng ngày 12, những chiến thuyền ga-le được lệnh dàn quân làm ba hàng, giữa các hàng là ghe nhỏ chở đại bác, tiến vào Cửa Ông; khi tiến đến giữa tầm đại bác, bị ba đồn phòng vệ khạc lửa vào, họ chịu trận, không chống trả, cho tới khi đạt tới cửa sông; chỗ này đã rất cạn lại còn bị địch lấp thêm nhiều vật liệu khác nhau, nhất là nhiều cọc nhọn và sà ngang; cho nên ga-le và ghe đại bác bị chặn lại, không thể tiến thoái được. Địch quân mừng quýnh, càng bắn dữ; bấy giở vua thấy nguy cơ trước mắt, mới ra lệnh cho quân nhẩy xuống nước lội vào bờ dưới làn súng đại bác đồn địch bắn ra. Những chiến thuyền ga-le dù bị mắc cạn cũng bắn trả dữ dội để những ghe nhỏ chở đại bác may mắn trườn qua chỗ bị ngáng.

Tướng chỉ huy, là chồng của em vua ngụy, đóng trong đồn phòng thủ với 10.000 quân tinh nhuệ, tên là Ong Foo Matthey [Ông Phò Mã Trị (Nguyễn Văn Trị)].Tính tụ phụ làm tăng tốc sự thua trận của ông. Từ trên thành, nhìn thấy sự thảm bại của đội ngũ chúng tôi; ông tưởng ông chỉ cần ra chụp lấy chúng tôi như ta bắt đàn cừu trong vườn; chẳng may người công dân đại tướng khốn khổ lại bị thọp cổ; ra khỏi thành 500 toises [khoảng gần một cây số], ông đụng đầu với quân Cấm Vệ (Gardes du corp) tức là quân Theuk Teuk [quân Túc Trực của Lê Văn Duyệt], họ dùng lưỡi lê ở đầu súng đột kích ông một cách quyết liệt. Những toán lính khác, trước ở trên ga-le, tiến đến bên sườn và sau lưng ông. Ông bị bao vây tứ phiá, không có cách nào tiếp cận được với trong thành. Quân của ông cũng nhìn thấy cảnh ấy. Lính của chúng tôi dữ dội xông vào với sự hung hăng kịch liệt. Không có cách nào thoát được, ông kêu tha chết, nhưng người lính say sưa chém giết chẳng nghe thấy gì, kể cả lệnh trên. Phải khó nhọc lắm mới kéo được con mồi ra khỏi tay anh ta. Ông tướng Phò Mã Trị bị bắt sống đem đến trình diện vua, vua truyền sai đóng xích sắt.

Tất cả ngày hôm đó chúng tôi sửa soạn để tấn công những thành đồn khác, phiá trong sông. Bên địch có 7 tầu thuộc đội ngũ 65 tầu từ Bắc đem vào, đã cập bến đêm mùng 10. Những tầu khác thấy đậu ở cách quân chúng tôi hai dặm nhưng chạy nhanh nên thoát được.

Ngoài ra, họ còn có 10 tầu và 14 chiến thuyền ga-le; rất nhiều ghe đại bác, dưới lệnh của Tua Maa Noe [Tư Mã Nguyễn Văn Tứ?], có đầy người. Chúng tôi ở trên đài cao dựng trên cột buồm với kính viễn vọng nên có thể phân biệt được diện mạo những tác nhân chính.

Bấy giờ là 10 giờ sáng. Khi quân tiền vệ của chúng tôi gồm những ghe đại bác dưới sự điều khiển của Vệ uý vệ Phấn Dực [fan Vieuk, chú thích của Cadière, chép theo Cl. E. Maitre], [chắc là Tống Phước Lương, vì lúc đó ông là Vệ uý vệ Phấn Dực Trung Quân, TL, I, t. 432] bắt đầu tiến vào tầm đại bác của họ. Hạm đội của họ thả neo theo hình lưỡi liềm được giàn đại bác gài chéo nhau che chở. Chiến thuyền ga-le của chúng tôi từ từ tiến vào, vừa đi vừa dò dẫm vì không biết rõ lòng sông; lúc thủy triều xuống, cạn hẳn.

Chúng tôi thấy các ghe đại bác bên địch bắt đầu chuyển động, và phân biệt được 27 ghe đang tiến về phiá chúng tôi. Tướng địch, mà người ta nhận ra nhờ ghe của ông có quốc kỳ lụa đỏ treo trên cột trước, không ngừng phất phới để khích lệ ba quân. Nhưng sự kinh hoàng đã tiến trước vua: ông Vệ uý vệ Phấn Dực không bắn súng báo hiệu, chợt đột kích xông vào tất cả các ghe đại bác của địch cùng một lúc. Bấy giờ chúng tôi sống một trận chiến ngắn nhưng thật đẫm máu: các đồn, tầu và các chiến thuyền ga-le nhất loạt cùng bắn, không phân biệt bạn thù. Nhưng chỉ trong 5 phút, chúng tôi đã thấy cờ vàng phất phới thay thế cờ đỏ. Trong khoảnh khắc này, đoàn chiến thuyền ga-le và ghe đại bác của ta đã đến và chúng tôi xung phong tiến lên tầu, thuyền địch, rồi đổ bộ xông vào thành luỹ đánh giáp lá cà. Tới chính ngọ, một sự im lặng ngự trị toàn thể. Lửa trên các chiến hạm của địch làm thành một cảnh tượng bi tráng. Bãi cát đối diện với chỗ chúng tôi thả neo, người chạy trốn lấp đầy không gian mà tầm nhìn có thể đạt được.

Nhà vua đã ngược dòng sông với toàn bộ quân đội. Ba giờ chiều, người đạt tới bến kế cận cung điện của tổ tiên. 10 [đại biểu] dân tộc quỳ gối trên bờ sông, có vẻ chờ đợi sự phán quyết mà vì vua chiến thắng sẽ tuyên bố. Một sự im lặng trọng đại bao trùm. Hồi tưởng lại những xúc phạm và nhục mạ trong quá khứ, gây mối kinh hoàng, khiến họ không thể yên lòng. Vì thế cho nên, họ đã thực tình kinh ngạc, khi thay vì thấy một kẻ chiến thắng, nổi giận bước xuống thành phố của họ; họ lại nhìn thấy một Henry IV, một người cha khoan dung, và nhân từ. Sự thanh tịnh và lòng tốt khắc trên trán nhà vua là điềm báo cho họ biết những gì sẽ chờ đợi họ trong tương lai. Tất cả quân đội tham chiến, trong sự im lặng sâu lắng nhất, đợi lệnh vua. Đến 6 giờ chiều, Hoàng thượng ra lệnh cho tất cả quân đội phải lên tầu và chính người cũng lên tầu của người để ngủ; sau khi đã chỉ định các đội canh gác tất cả các khu trong thành phố, cấm cướp bóc, vi phạm sẽ bị tử hình.”

Vua Gia Long vào kinh đô Huế

Barisy viết tiếp:

“8 giờ sáng ngày 15/6/1801, (tháng thứ 5, Cảnh Hưng thứ 62; năm thứ 27, ngụy triều Wandoé [Nguyễn) Văn Huệ], còn được mệnh danh là Tais Shon hay Teschon[Tây Sơn], có nghiã là gia đình ở trên núi [Tây]), cháu của vị chúa sau cùng [tức Định Vương Nguyễn Phước Thuần], con người em của chúa [Nguyễn Ánh là con anh của chúa], đặt chân đến kinh đô Nam Hà.

Nhà vua không vào cung điện mà ngồi ở một phòng tiếp kiến bên ngoài, nơi dân chúng có thói quen tụ họp để hy vọng được thấy vua những ngày thiết triều.

Chính ở trong phòng này, 8 giờ sáng, tôi nhìn thấy vua. Vô số quần chúng đủ mọi hạng người, mọi tuổi, quây quần bên ông. Quân canh gác sơ sài, không mang khí giới, đứng cách quân vương khá xa. Thấy tôi, vua gọi lại, hỏi thăm tin tức Chaigneau… (Chaigneau bị đau từ mấy ngày nay), tôi kể chuyện này để thấy tấm lòng của nhà vua.

Sau đó, Hoàng thượng hỏi xem tôi đã thấy các tướng địch chưa. Tôi trả lời chưa. Người ra lệnh dẫn dẫn tôi đến gặp họ, sau đó người bảo tôi lại thăm các em của vua Ngụy. Tôi đi ngay. Họ ở trong một phòng nhỏ khá tăm tối, không có gì là lịch lãm, điều này càng làm tăng sự tương phản như đập vào mắt giữa quá khứ và hiện tại của họ. Con số những công nương là 5. Một cô trạc tuổi 16 tôi thấy rất xinh đẹp. Một cô nhỏ độ 12 tuổi, con gái công chúa Bắc Hà[3], cũng thường thôi; ba cô khác từ khoảng 16 đến 18, da ngăm ngăm nhưng diện mạo dễ coi; ba cậu con trai, một cậu 15 tuổi, da cũng ngăm ngăm, nét mặt tầm thường; hai cậu khác cũng trạc 12 tuổi, con công chúa Bắc Hà, diện mạo khôi ngô, điệu bộ dễ thương.

Sau cuộc đi thăm ngắn ngủi này, tôi được dẫn đến một nhà tù khác, ở đó tôi thấy Mad Theẽu Do’an [Bà Tư Đồ], vợ tướng thủy binh của địch mà nhà vua đã đốt[thuyền, tầu] ở Quy Nhơn [tức Bà Võ Văn Dũng]. Bà này đẹp, vẻ hiền hậu và lịch sự. Mẹ của ông tướng này tuổi khoảng từ 45 đến 50. Bà nói chuyện rất lâu với tôi và kêu than số phận rủi ro của bà.

Trong một nhà tù khác, gần đấy, giam, mẹ của tướng Thieuu Phoo [Thiếu Phó Trần Quang Diệu] thống lãnh quân đội hãm thành Quy Nhơn. Bà trạc độ 55 tuổi. Một khuôn mặt cao quý trong sự bất hạnh, bà tỏ ra cương nghị, chính trực mà không kiêu hãnh.

Sau đó đến vợ của ông tướng foo Maatthey [Phò Mã Nguyễn Văn Trị], bà là em gái của vua Ngụy, và cũng là một chiến sĩ. Bà Theuk hauv Dinh [Tư Khấu Định, chú thích Cadière, theo Cl. E. Maitre] vợ của tướng Pháo binh.

Bà Ton Lin Keen [?], vợ của Phó Thống Lĩnh thuỷ quân, vv và vv… nhiều lắm, trong đầu phải có cuốn lịch sách mới nhớ lại được.

Nhà vua đã thả tất cả nhà cửa của các quan, tướng địch cho cướp bóc. Tôi rất tức giận chuyện này; vì bọn lính đã đập phá tất cả những gì dưới tầm tay của chúng, có những dinh cơ, tuy làm theo lối Tầu, nhưng đối với Paris có thể là một lâu đài tráng lệ, với vườn cảnh, trồng đầy cây lạ, những bình sứ Nhật Bản. Sự trả thù của nhà vua dẫn đến kết quả như thế”. (Thư Barisy viết cho Marquini và Létondal, trên tầu Thoại Phụng, ngày 16/7/1801, BAVH, 1926, IV, t. 400-406).

Barisy là một trong những người, nói đúng hơn, là người duy nhất đã viết kỹ, viết rõ, với văn tài bẩm sinh, về những ngày lịch sử này. Anh không chỉ làm sống lại các trận chiến như bầy ra trước mắt, mà còn cho thấy khiá cạnh nhân văn, về con người, về sự ứng xử của họ trước mọi tình thế. Gia Long đạt tới chiến thắng cuối cùng trong lúc bi kịch cá nhân của ông có những mất mát kinh hoàng không kém trận điạ, trong năm 1801: hoàng tử Cảnh hiền lành, mất trên giường bệnh; hoàng tử Hy dũng mãnh, biệt hiệu Ông Búa, mất trong khi hành quân, cách nhau hai tháng. Các mãnh tướng: Võ Di Nguy tử trận, Võ Tánh tử tiết. Học giả Ngô Tòng Châu uống thuốc độc. Gia Long đem Minh Mạng mới chín tuổi, đi theo, trong cuộc hành quân định mệnh từ Gia Định ra Huế, để học nghề làm vua, đúng theo truyền thống các chúa Nguyễn. Chiến thắng của Gia Long nhuốm mầu cay đắng. Sự trả thù của ông trên toàn thể gia đình Tây Sơn sau này, mà Barisy, mới chỉ nhìn thấy màn đầu, đã nói lên cái nhỏ của một vì vua lớn.

——————————

Chú thích:

[1]Tức Thiếu Phó Trần Quang Diệu, thực ra thuỷ quân Tây Sơn ở dưới lệnh của Tư đồ Võ Văn Dũng.
[2] Cửa Hậu, Cửa Eo hay cửa Thuận An, theo Thực Lục thì Phạm Văn Nhơn và Nguyễn Văn Trương tấn công của Eo.
[3] Ngọc Hân công chúa.

Theo THỤY KHUÊ

Tags: , , ,