Bài học về chủ quyền và hòa bình nhìn từ lịch sử chủ nghĩa đế quốc Mỹ

Với các quốc gia có một lịch sử coi chủ quyền là hàng hóa, các vùng đất sẽ là nơi họ đánh giá lợi ích, hơn là cố gắng bảo vệ nó như một nơi thiêng liêng. Do vậy, họ sẽ có xu thế rời bỏ khi việc nắm giữ tạo ra “thua lỗ”. Các quốc gia coi chủ quyền là điều thiêng liêng cần phải giữ được sự độc lập và tự chủ, thay vì trông chờ giải pháp từ bất kỳ thế lực nào, dù là thế lực đó có năng lực quân sự hùng mạnh tới đâu.

Bài học về chủ quyền và hòa bình nhìn từ lịch sử chủ nghĩa đế quốc Mỹ

Từ các giao dịch về chủ quyền

Mặc dù không thường được coi là một loại hàng hóa nhưng trong lịch sử, chủ quyền đã từng giống như một thứ có thể mua và bán, thậm chí là phương tiện chính cho sự bành trướng lãnh thổ của Mỹ. Trong một loạt các hiệp ước đã giúp định hình nước Mỹ ngày nay, các chính phủ hoạt động giống như một doanh nghiệp, mua và bán quyền tài phán của họ thông qua sáp nhập và cơ cấu khiến ngay cả giới tài phiệt ngày nay cũng phải ghen tị.

Ngoài vụ mua Louisana từ Pháp năm 1803 và vụ mua Alaska từ Nga năm 1867 là những thương vụ giao dịch chủ quyền nổi tiếng nhất, Mỹ còn mở rộng lãnh thổ bằng nhiều vụ mua bán theo nghĩa đen khác. Năm 1819, Tây Ban Nha “bán” chủ quyền Florida với giá khoảng 3 triệu USD. Năm 1845, Mỹ trả khoản nợ 7,5 triệu USD cho Cộng hòa Texas để sáp nhập thành một bang lớn. 3 năm sau, Mexico nhượng lại California, New Mexico và Utah cho Mỹ, đổi lấy 15 triệu USD. Năm 1854, Arizona cũng trở thành một phần của Mỹ với giá 10 triệu USD.

Danh sách này có thể dài hơn nữa, nếu kiểm kê lại lịch sử gần đây hơn, như vụ Tây Ban Nha bán Phillipines và Puerto Rico vào năm 1898, hay Đan Mạch bán quần đảo Virgin thuộc Mỹ vào năm 1917. Gần hơn cả, Mỹ đã thuê lại vịnh Guantanamo của Cuba để lập căn cứ hải quân và xây dựng một trong những nhà tù khét tiếng bậc nhất trên thế giới. Những giao dịch kiểu vậy đã khiến Bộ Chỉ huy chiến đấu đặc biệt của Mỹ viết trong một bản ghi nhớ vào năm 2008 rằng chủ quyền “là một dạng hàng hóa được thúc đẩy bởi các động lực như thị trường”. Quốc hội Mỹ thậm chí đã từng phê chuẩn nhiều hiệp ước liên quan đến chuyện coi chủ quyền như một kiểu hàng hóa.

Tư duy này khiến người Mỹ thường thất bại khi các cuộc tranh chấp lãnh thổ chuyển sang trạng thái xung đột, bất chấp các tuyên truyền về chiến thắng của họ. Vào ngày 28/12/2014, chỉ huy các lực lượng quốc tế của Mỹ tại Afghanistan đã chủ trì một buổi lễ ở Kabul. Đứng trước một nhóm binh sĩ NATO, tướng John Campbell ca ngợi: “Các bạn đã làm cho Afghanistan trở nên mạnh mẽ hơn và các quốc gia của chúng ta an toàn hơn. Con đường phía trước chúng ta vẫn còn nhiều thử thách nhưng chúng ta sẽ chiến thắng”.

Thời điểm ấy, có khoảng 10 ngàn lính Mỹ ở lại Afghanistan với nhiệm vụ “hỗ trợ an ninh” tại đất nước này. Vào cao điểm năm 2011, Lực lượng Hỗ trợ an ninh quốc tế (ISFA) có quân số lên đến 130 ngàn, phần lớn là người Mỹ, đóng tại Afghanistan. Hơn 50 quốc gia tham chiến nhưng ảnh hưởng và kỳ vọng của Mỹ với chiến dịch Afghanistan là không phải bàn cãi: đấy được coi là một thực tế chính trị kể từ sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001. Trên thực tế, đây là một cuộc chiến tranh của Mỹ. Một trong những cuộc chiến dài nhất lịch sử.

Những ngày đầu, Mỹ cho biết đã quét sạch Taliban trong một cuộc tấn công được thúc đẩy bởi sự giận dữ từ phe chính nghĩa vài tháng sau vụ 11/9. Tuy nhiên, Taliban vẫn sống sót và vào cuối năm 2014, đã sát hại hàng ngàn binh sĩ Chính phủ Afghanistan, sĩ quan cảnh sát cũng như dân thường. Cho đến thời điểm ấy, Mỹ đã chi hơn 1 ngàn tỷ USD và tổn thất khoảng 2.200 lính.Tháng 8 năm ngoái, Mỹ chính thức rút quân khỏi Afghanistan, kết thúc 2 thập kỷ lực bất tòng tâm.

Trước khi Mỹ tiến vào Afghanistan, Taliban có quân số khoảng 30 ngàn người.Tuy nhiên, họ hoạt động giống như một lực lượng dân quân rải rác, không phải chuyên nghiệp, hầu hết không được trả lương, không có thiết bị liên lạc và vũ khi hiện đại. Ngược lại, quân đội Mỹ được trang bị nhiều vũ khí và trang thiết bị tinh vi: chẳng hạn như kho tên lửa hành trình của Mỹ đã lớn gấp 10 lần kho tên lửa được sử dụng trong chiến dịch Bão táp sa mạc năm 1991. Tổng số binh lính, thủy thủ, không quân và thủy quân lục chiến phục vụ Mỹ vượt qua con số 1 triệu. Hàng trăm máy bay chở hàng quân sự đã chờ sẵn để vận chuyển mọi thứ, từ binh sĩ, khẩu phần ăn cho đến xe tăng và máy bay trực thăng đến Afghanistan. Hơn 200 máy bay ném bom chực chờ, cùng hàng chục tàu sân bay neo ngoài đại dương.

Với các quốc gia có một lịch sử coi chủ quyền là hàng hóa, các vùng đất sẽ là nơi họ đánh giá lợi ích, hơn là cố gắng bảo vệ nó như một nơi thiêng liêng. Do vậy, họ sẽ có xu thế rời bỏ khi việc nắm giữ tạo ra “thua lỗ”. Các quốc gia coi chủ quyền là điều thiêng liêng cần phải giữ được sự độc lập và tự chủ, thay vì trông chờ giải pháp từ bất kỳ thế lực nào, dù là thế lực đó có năng lực quân sự hùng mạnh tới đâu.

Con đường đến hòa bình

Khoảng 22 tỷ USD đã được các nhà tài trợ quốc tế chi hằng năm cho các nỗ lực xây dựng hòa bình. Các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới và Liên minh châu Phi đã làm việc cùng hàng nghìn tổ chức phi chính phủ (NGO), các nhà ngoại giao, nhân viên cứu trợ và các viện nghiên cứu để kiềm chế và giảm thiểu xung đột.

Có vẻ nỗ lực hợp tác gìn giữ hòa bình này được ca ngợi trên các bình diện chính trị và ý thức hệ, cũng như đóng một vai trò không nhỏ trong sự can thiệp của Mỹ và đồng minh vào tình hình nhiều quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều bằng chứng cho thấy không phải vậy: 40% các thực địa sau xung đột đều phát triển thành bạo lực trong vòng một thập kỷ, theo phát hiện của kinh tế gia Paul Collier thuộc Đại học Oxford. Một nửa các cuộc chiến đang diễn ra đã kéo dài qua 2 thập kỷ và số người chết trong các trận chiến đã tăng 277% trong vòng 15 năm qua. Severine Autesserre, nhà khoa học chính trị tại Đại học Columbia (New York), đã viết trong cuốn “Biên giới của hòa bình” (xuất bản 2021): “Các khuôn mẫu và kỹ thuật chúng ta dùng để kiến tạo hòa bình về lâu dài không hiệu quả”.

Theo Autesserre, vấn đề nằm ở “việc sử dụng một cách máy móc, thiếu suy nghĩ các biện pháp đóng khung, cứng nhắc, từ trên xuống dưới”. Cô trích dẫn một nghiên cứu, trong đó các chuyên gia hàng đầu đã phân tích 21 hiệp định hòa bình để rút ra: “Không có ví dụ rõ ràng nào về thỏa thuận giữa các quốc gia hàng đầu trong việc chấm dứt tình trạng bạo lực. Hóa ra, hòa bình giả dối cũng chỉ là một hệ tư tưởng tồi tệ như thuyết kinh tế nhỏ giọt vậy”.

Bà chỉ trích mạnh mẽ cách thức “áp đặt” hòa bình và cho rằng nó cũng không khác mấy với chủ nghĩa đế quốc đã lỗi thời. Bà mô tả các cư dân ở Cộng hòa dân chủ Congo, Palestine và Timor-Leste đều phán nàn với bà rằng hành vi của những kẻ can thiệp gợi họ nhớ lại những gì cha mẹ hoặc ông bà của mình nói về cảm giác dưới thời chủ nghĩa thực dân: hạ thấp nhân phẩm, nhân tính và gây phẫn nộ.

Ý tưởng kiến tạo hòa bình này cũng đã bị hoen ố trên thực tế bởi đôi khi nó đã áp đặt bằng bạo lực, gợi nhớ đến cách ngôn sâu sắc của Mark Twain về sự can thiệp của Mỹ vào Phillippines cuối thế kỷ 19: “Chúng ta đã dẹp loạn khoảng hàng ngàn người dân trên đảo rồi sau đó chôn vùi họ”. Đơn vị Kỷ luật và Ứng xử của Liên Hợp quốc đã xác nhận 700 vụ cưỡng hiếp trong 1 thập kỷ qua từ lực lượng gìn giữ hòa bình trong thập kỷ qua và một số báo cáo truyền thông cho rằng con số thực tế có thể lên đến 60 ngàn.

Những thỏa thuận hòa bình hời hợt hay áp đặt hòa bình tạo ra cái mà Jane Addams – một trong những lý thuyết gia vĩ đại về hòa bình đầu thế kỷ 20 – gọi là “hòa bình tiêu cực”. John Paul Lederach, giáo sư danh dự về xây dựng hòa bình quốc tế tại Đại học Notre-Dame ở Indiana, cho rằng hòa bình bị ấn vào tay này tạo ra một “lỗ hổng xác thực”, dẫn đến “sự nghi ngờ, thờ ơ và xa cách”.

Kết thúc của Chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô đã thay đổi hoàn toàn trật tự và khuyến khích nhiều nhà lãnh đạo trở thành những người đi can thiệp với ngọn cờ tự do và dân chủ, với kết cục thường thấy là chiến tranh. Các xung đột và rắc rối thường xuyên cần đến người hòa giải từ bên ngoài nhưng không phải là áp đặt. Các ví dụ về những tổ chức có khả năng lắng nghe là Viện Sự sống và Hòa bình ở Thụy Điển hoặc mạng RESOLVE toàn cầu. Những tổ chức này không áp đặt một cách ngạo mạn các phương pháp của họ, mà lắng nghe nhiều hơn, tạo điều kiện cho các cuộc đối thoại, theo cách được ví von là “dàn xếp nhu thuật (jujitsu)”.

Cho đến thời điểm tư tưởng này có hiệu quả, các quốc gia nhỏ có lẽ vẫn sẽ phải tự dè chừng với sự áp đặt hòa bình từ các nước lớn, thường suy nghĩ về chủ quyền như hàng hóa, thay vì một vùng đất thiêng liêng.

Theo AN NINH THẾ GIỚI

Tags: , , ,