10 trận bao vây đẫm máu nhất trong lịch sử quân sự

30.000 lính Ottoman tử trận khi vây một pháo đài với gần 3.000 quân, còn trong số 50.000 người ở thành Kiev, chỉ khoảng 2.000 người sống sót khi họ chống quân Mông Cổ.

Trận chiến cuối cùng của Suleiman Đại đế (năm 1566)

Đế chế La Mã Thần thánh hay Thánh chế La Mã là tên của một đế quốc từng tồn tại ở châu Âu từ năm 962 tới năm 1806. Vào thời kỳ thịnh vượng trong thế kỷ 12, lãnh thổ Thánh chế La Mã bao gồm Đức, Áo, Thụy Sĩ, miền đông Pháp, Bỉ, Hà Lan, miền tây Ba Lan, Czech, Italy. Tuy nhiên, vào thế kỷ 16, Thánh chế La Mã trở thành đối tượng chinh phục của vua Suleiman đệ nhất (hay Suleiman Đại đế), một trong những vị hoàng đế lỗi lạc nhất của đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) nói riêng và châu Âu nói chung.

Szigetvár là một pháo đài ở rìa phía đông của Thánh chế La Mã. Nó cũng là nơi mà vua Suleiman Đại đế chỉ đạo trận đánh cuối cùng trong đời ông. Khi cuộc chiến xảy ra, Suleiman đã hơn 70 tuổi. Với lực lượng dưới 3.000 người, Nikola Zrinski, người đứng đầu Croatia và cũng là chỉ huy của pháo đài, không chấp nhận yêu cầu đầu hàng của Suleiman Đại đế. Thậm chí ông còn tuyên bố rằng pháo đài sẽ là chốt chặn cuối cùng của Thánh chế La Mã trước quân Ottoman. Nếu tính về quân số, lực lượng của Suleiman gấp 50 lần binh lực của Zrinski.

Ngày 6/8/1566, cuộc vây hãm pháo đài Szigetvár bắt đầu. Vua Suleiman tung toàn bộ lực lượng, song vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của đối phương. Sau một tháng, chỉ 300 lính Croatia cùng gia đình họ sống sót. Suleiman hứa rằng Zrinski sẽ làm người lãnh đạo Croatia nếu ông đầu hàng, nhưng ông từ chối. “Dù tôi thua, nhưng người đời sẽ không trỏ ngón tay vào mặt các con tôi để nhục mạ cha chúng”, ông lập luận.

Nhận thấy cuộc chiến sắp kết thúc, Zrinski ra lệnh cho binh sĩ giết vợ, con để họ không phải chịu đựng những hình phạt khủng khiếp nếu rơi vào tay quân Ottoman. Những người lính tuân theo mệnh lệnh. Sau đó, họ chiến đấu tới khi người cuối cùng gục ngã. Quân Ottoman tàn sát dã man những người còn sống trong pháo đài. Tuy nhiên, Suleiman Đại đế cũng phải trả giá đắt cho chiến thắng, bởi ông đã chết vì bệnh kiết lị 4 ngày trước khi đội quân của ông kết thúc trận chiến. Ngoài ra, tổn thất của quân Ottoman lên tới gần 30.000 người nên họ không thể tiếp tục tiến lên và phải trở về nước. Mặc dù pháo đài Szigetvár thất thủ, người Croatia vẫn coi trận đánh là một trong những sự kiện hào hùng trong lịch sử Cơ đốc giáo, bởi nó giúp châu Âu tránh khỏi ảnh hưởng của đạo Hồi.

Trận chiến Nuremberg (năm 1632)

Chiến tranh Ba mươi năm là cuộc chiến giữa người Tin lành và người Công giáo trên một khu vực thuộc nước Đức ngày nay. Nó bắt đầu từ năm 1618 và kết thúc vào năm 1648. Phần lớn cường quốc tại lục địa châu Âu thời bấy giờ đều tham chiến.

Trong thế kỷ 17, Nuremberg là một trong những thành phố vĩ đại nhất của người theo đạo Tin lành. Nhưng nó cũng là nơi mà một trong những cuộc vây hãm thảm khốc nhất trong Chiến tranh Ba mươi năm diễn ra. Hồi đó quân đội Thụy Điển, dưới sự chỉ huy của Gustav Adolf, rút vào thành Nuremberg để thoát khỏi sự truy đuổi của quân đội Đế chế La Mã Thần thánh. Adolf có gần 150.000 lính, nhiều hơn 30.000 người so với Albrecht von Wallenstein, vị tướng của đối phương. Tuy nhiên, ông lại không mang đủ lương thực tới Nuremberg. Dù quân số nhỏ hơn, Wallenstein vẫn ra lệnh vây thành.

Điều may mắn của Adolf là Wallenstein cũng không có nhiều lương thực và thuốc men. Quân sĩ của cả hai bên đều hứng chịu tình trạng đói và bệnh tật, đặc biệt là bệnh sốt phát ban. Trong cuộc vây hãm gần 80 ngày, Adolf đã cố gắng phá vòng vây bằng một trận đánh quyết định, nhưng thất bại. Ông đào tẩu khỏi thành phố sau khi nhận ra rằng toàn bộ lực lượng của ông sẽ chết vì đói. Khi trận chiến kết thúc, khoảng 40.000 tới 50.000 lính của hai bên tử trận, song phần lớn họ chết vì bệnh tật, chứ không phải vì vũ khí của đối phương.

Thành Kiev chống quân Mông Cổ (năm 1240)

Kiev, một trong những thành phố cổ nhất tại châu Âu và thủ đô của Ukraina, từng phải chống lại sự vây hãm của đội quân viễn chinh hùng mạnh của Mông Cổ trong thế kỷ 13. Trước khi cuộc chiến diễn ra, Hãn Bạt Đô, cháu nội của vua Thành Cát Tư Hãn, đã phái sứ thần tới Kiev để yêu cầu thành phố đầu hàng. Voivode Dmytro, người lãnh đạo cuộc chiến chống Mông Cổ, đã ra lệnh giết các sứ thần. Việc đó khiến Hãn Bạt Đô tức giận. Vào ngày 28/11/1240, quân Mông Cổ bắt đầu bao vây Kiev. Chiến dịch công thành của họ bắt đầu bằng những đợt bắn đá.

Ngày 5/12, những bức tường thành sụp đổ. Hãn Bạt Đô và quân của ông tràn vào thành, giết tất cả những người mà họ gặp. Rất nhiều dân thường đã chạy tới Nhà thờ Tithes, công trình ra đời từ 300 năm trước đó, để ẩn náu. Song nhà thờ sụp khiến nhiều người chết. Trong số 50.000 dân tại thành Kiev, chỉ khoảng 2.000 người sống sót. Dmytro là một người trong số họ. Tới ngày 6/12, quân Mông Cổ hoàn thành việc tàn phá thành phố và rời khỏi đây. Mức độ tàn phá của quân Mông Cổ khủng khiếp đến nỗi Tổng giám mục Giovanni da Plano Carpini, người đến Kiev 6 năm sau đó, mô tả: “Kiev từng là một thành phố lớn và đông dân, nhưng giờ đây nó chẳng còn là gì cả”.

Quân Tây Ban Nha vây đối thủ hơn 3 năm

Chiến tranh Tám mươi năm hay Chiến tranh giành độc lập Hà Lan (1568-1648) là cuộc nổi dậy của 17 tỉnh để chống lại vua Felipe đệ nhị của Tây Ban Nha.

Ostend, nằm trên lãnh thổ Bỉ ngày nay, là nơi mà một trong những trận vây hãm lâu nhất trong lịch sử nhân loại từng diễn ra. Nó cũng là trận chiến đẫm máu nhất trong Chiến tranh Tám mươi năm. Do lực lượng nổi dậy của 17 tỉnh vừa gia cố thành Ostend, nó trở thành nơi lý tưởng để phòng thủ. Lực lượng trong thành vào khoảng gần 50.000 người – bao gồm cả quân Hà Lan và lính Anh. Tướng Francis Vere, người chỉ huy thành Ostend, cảm thấy rằng họ có thể đập tan quân Tây Ban Nha bên ngoài thành do hoàng tử Albrecht chỉ huy.

Cuộc vây thành bắt đầu vào ngày 5/7/1601, với sự tham gia của khoảng 80.000 lính Tây Ban Nha. Phần lớn họ là bộ binh. Trong trận chiến, cả hai phe đều sử dụng những mưu hiểm hòng hạ gục đối phương. Albrecht gần như đã thành công trong việc thuyết phục một nội gián trong thành Ostend kích động quân Hà Lan chống lại tướng Vere, nhưng kế hoạch bại lộ vào phút chót. Vere cũng từng muốn đàm phán với Albrecht để chấm dứt tình trạng đổ máu, nhưng cuối cùng ông rút lui do phía Tây Ban Nha nghi ngờ ý định của ông.

Cuối cùng, quân Hà Lan và Anh đầu hàng quân Tây Ban Nha vào ngày 20/9/1604. Hoàng tử Albrecht cùng cô vợ Isabella tiến vào thành trong tư thế của người chiến thắng. Tuy nhiên, khi chứng kiến cảnh hoang tàn của Ostend, Isabella đã khóc.

Vó ngựa Mông Cổ nghiền nát Baghdad

Vào năm 1258, vó ngựa Mông Cổ đã tiến về phía Baghdad – trung tâm của thế giới Ả rập thời đó. Người dẫn đầu đội quân này là Húc Liệt Ngột, một cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Húc Liệt Ngột coi Hồi giáo là mối đe dọa lớn nhất đối với đế chế Mông Cổ. Vì thế, ông quyết tâm phá hủy một trong những thành phố lớn nhất và nổi tiếng nhất của người Hồi giáo. Hơn 100.000 quân Mông Cổ bao vây Baghdad sau khi vua Al-Musta’sim không chấp nhận yêu cầu đầu hàng của Húc Liệt Ngột. Những người Hồi giáo dòng Shiite vốn có thù với Al-Musta’sim nên họ hỗ trợ quân Mông Cổ. Chiến dịch công thành bắt đầu vào ngày 29/1/1258 và thành Baghdad thất thủ vào ngày 10/2 cùng năm.

Ngay sau khi quân Mông Cổ tiến vào thành, họ giết tất cả những người Ả rập mà họ gặp, trừ những người Cơ đốc. Húc Liệt Ngột (hoặc vợ ông) ra lệnh cho quân lính đưa những người Cơ đốc tới một nhà thờ. Lính Mông Cổ cuộn vua Musta’sim vào một tấm thảm rồi để ngựa giẫm lên cơ thể vị vua cho tới khi ông chết. Ngôi nhà Tri thức, một trong những trung tâm học thuật nổi tiếng nhất trong thế giới Hồi giáo thời bấy giờ, trở thành mục tiêu mà quân Mông Cổ tàn phá. Lính Mông Cổ vứt mọi quyển sách trong thành xuống sông Tigris. Nhiều nhân chứng kể lại rằng số lượng sách dưới sông Tigris lớn đến nỗi ngựa Mông Cổ có thể bước qua sông một cách dễ dàng.

Quân Nga chống Anh, Pháp, Thổ tại Sevastopol

Sevastopol là một trong hai thành phố cảng trực thuộc trung ương của Ukraina ngày nay. Nó nằm phía tây nam bán đảo Krym thuộc Biển Đen.

Chiến tranh Krym là một cuộc chiến bắt đầu từ năm 1853 và kết thúc vào năm 1856. Trong cuộc chiến đó, quân Anh, Pháp và Thổ chống lại quân Nga. Cuộc bao vây Sevastopol – diễn ra từ năm 1854 tới năm 1855 – là một trong những cuộc chiến tranh hầm hào đầu tiên trong lịch sử. Nó là cuộc chiến sinh tồn đối với cả quân Nga lẫn liên minh Anh – Pháp – Thổ. Sau khi các tướng Nga nhận ra rằng họ không thể đánh bại đối phương trên trận địa trống trải, họ ra lệnh cho quân lính đào hào, hầm để phòng thủ. Ban đầu quân Nga hứng chịu tổn thất từ các đợt tấn công của liên quân, nhưng sau đó họ đào đường ngầm và chiến hào mỗi đêm để củng cố trận địa.

Trong lúc cuộc chiến đang diễn ra ở thế giằng co, kẻ thù chung của cả hai bên đã xuất hiện. Đó là mùa đông khắc nghiệt. Nhiệt độ giảm xuống mức thấp kỷ lục khiến lính của hai bên chết dần vì bệnh tả và kiết lị. Quân Pháp hứng chịu tổn thất lớn nhất, bởi số lượng binh sĩ chết vì bệnh chiếm tới gần một nửa tổng số người tử trận của Pháp. Sau khi bảo vệ thành công Sevastopol, người Nga vẫn phải rút lui. Vì thế, quân liên minh dù thua nhưng vẫn tiến vào pháo đài hôm 9/9 cùng năm. Cái giá của cuộc bao vây là hơn 200.000 sinh mạng của cả hai bên. Chẳng bao lâu sau chiến tranh Krym cũng kết thúc.

Chiến dịch bao vây thủ đô của đế chế Aztecs

Aztecs từng là một nền văn minh trên lãnh thổ thuộc Mexico ngày nay. Đế chế Aztecs bắt đầu từ năm 1248 và kết thúc vào năm 1521, sau khi thực dân Tây Ban Nha đánh bại quân đội Aztecs.

Trận bao vây Tenochtitlán, thủ đô của đế chế Aztecs, vào năm 1521 là trận chiến quyết định giữa quân Aztecs và quân Tây Ban Nha. Những thổ dân châu Mỹ chiếm phần lớn lực lượng của Tây Ban Nha. Họ chiến đấu cho Tây Ban Nha vì căm phẫn sự áp bức của đế chế Aztecs đối với họ. Hernan Cortes, vị tướng của Tây Ban Nha, chỉ huy 200.000 quân trong trận bao vây Tenochtitlán. Trong khi đó, gần 300.000 chiến binh Aztecs bảo vệ thủ đô. Dù thua kém về quân số, lực lượng Tây Ban Nha lại sở hữu những vũ khí hiện đại hơn. Lợi thế về vũ khí giúp họ đảo ngược tình thế trong giai đoạn sau của cuộc chiến.

Ban đầu lợi thế nghiêng về quân Aztecs. Nhưng bệnh đậu mùa đã tấn công lính Aztecs, khiến khả năng chiến đấu của họ giảm mạnh. Nhận thấy kiểu chiếm từng nhà không phải là chiến thuật hay, Cortes ra lệnh nã đại bác vào thành phố, hủy diệt mọi tòa nhà tới khi quân Aztecs đầu hàng. Chiến dịch bao vây diễn ra trong vỏn vẹn 3 tháng, nhưng nó gây nên tổn thất cực lớn về nhân mạng. Hơn 200.000 người của cả hai bên đã mất mạng. Các tài liệu cho thấy dân thường trong thành phố chiếm tới khoảng một nửa số người chết trong trận chiến.

Đế chế La Mã bao vây thành Carthage

Carthage từng là một trong những thành phố thịnh vượng và quyền lực nhất thế giới trước khi Đế chế La Mã ra đời. Nó cũng là một trong những thành phố lớn nhất hành tinh trong giai đoạn trước cuộc cách mạng công nghiệp. Nhưng vào năm 149 trước Công nguyên, người dân ở Carthage phải chứng kiến một trong những trận chiến tàn khốc nhất trong lịch sử. Quân La Mã từng phát động hai cuộc chiến tranh nhằm thôn tính Carthage nhưng không thành. Trong cuộc chiến lần thứ ba, Scipio Aemilianus, một chấp chính quan La Mã, trở thành người chỉ huy quân viễn chinh.

Nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đầu tiên của Carthage là sản xuất vũ khí, bởi họ đã giao nộp toàn bộ áo giáp và vũ khí cho La Mã theo một thỏa thuận trước đó. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, họ giành một số thắng lợi quan trọng và đẩy lùi các đợt tấn công của đối phương. Nhưng về sau quân La Mã đã thành công trong việc chặn mọi đường tiếp tế vào thành. Người Carthage cố gắng chọc thủng vòng vây, nhưng thất bại. Cuối cùng, sau ba năm, quân La Mã chiếm được thành vào năm 146 trước Công nguyên. Họ biến thành phố thành biển máu, bắt khoảng 50.000 người sống sót làm nô lệ và phá mọi tòa nhà của Carthage trước khi về nước. Hơn 460.000 người mất mạng trong cuộc chiến.

Trận vây thành Jerusalem

Sau cuộc nổi dậy của người Do Thái vào năm 66 sau Công nguyên, Đế chế La Mã quyết định tiêu diệt vĩnh viễn dân tộc này. Vào năm 70, họ cử tướng Titus Flavius dẫn 70.000 quân tới thành phố Jerusalem – nơi có vai trò rất quan trọng đối với người Do Thái – để thôn tính. Gần 40.000 binh sĩ bảo vệ thành Jerusalem.

Titus chia lực lượng thành 4 đạo quân để bao vây Jerusalem từ tháng 2 năm 70. Để thuyết phục đối phương đầu hàng, ông phái Josephus, một sử gia Do Thái, vào thành để thương thuyết. Nhưng quân Do Thái đáp trả bằng cách bắn tên về phía sử gia khiến ông bị thương. Dân trong thành thiếu lương thực trầm trọng do quân La Mã phong tỏa đường tiếp tế vào thành. Họ phải ăn cả đồ da và rác để tồn tại. Thậm chí nhiều người đã ăn thịt đồng loại. Sử gia Josephus ghi trong một tài liệu rằng một bà mẹ Do Thái đã giết con để ăn thịt.

Cuối cùng quân La Mã phá thủng một bức tường thành và thực hiện một cuộc tấn công bí mật vào ban đêm. Ngay sau khi lọt vào thành, họ tàn sát mọi người dân mà họ gặp. Binh lính La Mã phá tan những công trình và hôi của, cướp bóc khắp nơi. Khoảng gần một nửa số dân trong thành Jerusalem sống sót, nhưng quân La Mã biến họ thành nô lệ và bán. Một tỷ lệ lớn những nô lệ đó bị sát hại ngay trên các đường phố. Tới ngày 7/9/70, quân La Mã chính thức kiểm soát hoàn toàn Jerusalem. Khoảng 1,1 triệu người chết vì cuộc chiến.

Phát xít Đức bao vây thành phố Leningrad

Một trong những trận bao vây đẫm máu và dài nhất trong lịch sử diễn ra ở mặt trận phía đông trong Thế chiến thứ hai. Chiến dịch phong tỏa Leningrad của phát xít Đức kéo dài 871 ngày, bắt đầu từ hôm 8/9/1941 và kết thúc vào hôm 27/1/1944. Nó là một trong các biểu tượng lớn nhất của cuộc đọ sức cả về quân sự cũng như sức chịu đựng của con người giữa Liên Xô và Đức. Trong giai đoạn cuối của trận chiến, khẩu phần của mỗi người lính Liên Xô chỉ là 1/4 ổ bánh mì.

Bất chấp tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, Hồng quân và nhân dân Liên Xô tại Leningrad vẫn chống cự quyết liệt. May mắn thay, khi nước trong hồ Ladoga gần thành phố đóng băng hoàn toàn vào mùa đông, chính phủ Liên Xô đã có thể đưa hàng hóa vào thành phố, đồng thời đưa người già, trẻ em, phụ nữ và người ốm ra ngoài. Vì thế người ta gọi lối vào Leningrad qua hồ Ladoga là “Con đường của sự sống”. Cuối cùng, Hồng quân đẩy lùi lực lượng Đức ra khỏi Leningrad và kết thúc cuộc vây hãm Leningrad vào năm 1944. Các sử gia ước tính tổng số lính (của hai bên) và dân thường đã chết trong trận chiến có thể lên tới 2,5 triệu. Hơn một triệu dân thường Liên Xô chết vì bom, đạn và đói, rét.

Theo TRI THỨC TRỰC TUYẾN

Tags: ,