Vạch trần sự xuyên tạc lịch sử về nạn đói năm 1945

Năm 1945, một thảm họa khủng khiếp đã xảy ra với dân tộc ta: Hơn hai triệu đồng bào chết đói. Hàng triệu người đang sống hôm nay từng có người thân là nạn nhân, là nhân chứng của sự kiện này và ai cũng có thể biết nguyên nhân nạn đói từ đâu.

Vạch trần sự xuyên tạc lịch sử về nạn đói năm 1945

Nhưng gần đây lại xuất hiện ý kiến đổi trắng thay đen về vấn đề này, và vì thế, dù khép lại quá khứ hướng tới tương lai, chúng ta vẫn phải khẳng định: Không được phép xuyên tạc lịch sử!

Hơn 70 năm đã qua, dù đất nước phải trải qua bao nhiêu thăng trầm để có ngày thống nhất, độc lập, xây dựng cuộc sống mới thì sự kiện hơn hai triệu đồng bào chết đói năm 1945 (chiếm khoảng một phần mười dân số cả nước khi ấy, nếu chỉ tính ở miền bắc thì số người chết chiếm khoảng một phần sáu dân số) vẫn còn hằn in trong tâm thức hàng triệu người. Qua chương trình Như chưa hề có cuộc chia ly của Truyền hình Việt Nam, chúng ta vẫn chứng kiến những người thân đi tìm nhau sau hơn nửa thế kỷ thất lạc vì phải chia lìa do nạn đói. Và đến nay, từ các cứ liệu lịch sử cụ thể, xác thực,… việc xác định đâu là thủ phạm đã gây ra nạn đói năm 1945 là điều không cần tranh cãi.

Tuy nhiên gần đây, với thủ đoạn đổi trắng thay đen, một số kẻ bịa đặt, đưa lên internet luận điệu vu cáo nhằm vào uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Mấy kẻ này lu loa “Việt Minh là thủ phạm gây ra nạn đói năm 1945, Việt Minh lấy gạo để cung cấp cho quân đội Trung Hoa dân quốc”, thậm chí Trần Gia Phụng – hiện sống tại Canada và được một số kẻ tung hô là “sử gia, giáo sư”, trơ tráo bịa đặt: “Việt Minh xúi dân chúng chống đối việc trưng mua lúa gạo, xúi dân đánh phá các kho lúa… Trong cơn đói, có người đành phải lên mật khu gia nhập Việt Minh để được chia phần gạo cướp được cho qua nạn đói,…”.

Do đó, dù nhất quán với chủ trương hòa hiếu, rộng mở, khép lại quá khứ hướng tới tương lai, không biến nỗi đau thương của quá khứ thành mối thù trong hiện tại để ảnh hưởng tới tình hữu nghị giữa các dân tộc, ảnh hưởng tới quan hệ hợp tác, phát triển giữa các quốc gia,… thì việc làm sáng tỏ lịch sử để vạch trần luận điệu của mấy kẻ này vẫn trở nên cần thiết, để không có điều gì của lịch sử bị lãng quên, để luôn trân trọng những thành quả của đất nước trong hiện tại.

>> Sự thảm khốc của nạn đói năm 1945 qua ống kính Võ An Ninh
.

Thảm trạng kinh hoàng và đau đớn

Việt Nam đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo và đất nước đã đổi thay rất nhiều. Song người Việt Nam vẫn không quên thảm trạng đau đớn mà cha ông đã phải chịu đựng trong những tháng ngày từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945. Hơn hai triệu đồng bào bị chết đói vì sự cai trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phát-xít. Nạn đói diễn ra ở 32 tỉnh miền bắc và Bắc Trung Bộ, từ Quảng Trị trở ra, trọng điểm là các tỉnh đồng bằng, nơi dân số tập trung đông, như Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hóa. Cái đói đã không buông tha ai, những người chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất là người nghèo, người lao động, làm thuê… Sau này, khi nạn đói lan rộng, có những gia đình, dù còn nhiều tài sản trong nhà nhưng bán không ai mua, rồi cũng bị chết đói.

Số liệu thống kê cũng cho biết “Riêng tỉnh Thái Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất, đã được Ban lịch sử tỉnh điều tra, con số tương đối sát thực tế là cả tỉnh chết đói mất 280.000 người. Chỉ tính số người chết đói ở Thái Bình cùng với Nam Định hơn 210.000 người, Ninh Bình 38.000, Hà Nam 50.000 thì số người chết đói đã lên đến hơn 580.000. Như vậy, con số hai triệu người Việt Nam chết đói trong 32 tỉnh cũ tính từ Quảng Trị trở ra và hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng là gần với sự thực” (Văn Tạo – Nạn đói ở Việt Nam năm 1945 – nguyên nhân và hậu quả, in trong cuốn sách Nỗi đau lịch sử: Nạn đói 1945, báo Tuổi trẻ và NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh năm 2007, tr.61).

Đỉnh điểm của nạn đói là tháng 3-1945, từ lúc phải ăn rau dại, củ chuối, vỏ cây, bán dần tài sản trong gia đình để mua lương thực cầm hơi đến lúc không còn gì để bán và không thể mua, rất nhiều người đã ngồi chờ chết. Dân chúng bỏ làng lũ lượt kéo nhau đi mà không biết đi đâu, kiếm được gì, xin được gì ăn nấy. Vì đông người xin quá nên cũng không có nhiều người có để cho và thế là cứ lả dần đi và chết. Trong các bức ảnh của nghệ sĩ Võ An Ninh, có những hình ảnh khi người con xin được chén cháo cố đút cho bố nhưng miệng ông đã cứng đờ. Nhiều gia đình chết cả nhà, gia đình tứ tán đi các nơi kiếm ăn và sau này cũng chết gần hết, có dòng họ chỉ còn một vài người sống sót.

Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988 cho biết, phủ Nghĩa Hưng (Nam Định) mỗi ngày chết 400 người; huyện Kim Sơn (Ninh Bình) cả vụ đói có 22.908 người chết; trong 6.161 hộ thì có 1.571 hộ chết không còn người nào. Khi người đói kéo về các thành phố lớn, lúc đầu chết còn được bó chiếu đem chôn, sau vì nhiều người chết quá nhà chức trách đành phải chất xác lên xe bò, hất chung xuống hố. Nhân chứng kể lại rằng, có người còn thoi thóp nhưng vẫn bị vứt lên xe đưa đi chôn, vì “trước sau gì cũng chết”.

Tài liệu của Viện Sử học cũng cho biết, nhiều nhân chứng sống sót kể lại gặp rất nhiều cảnh thương tâm khi người mẹ đã chết đói nhưng con nhỏ vẫn cố sờ tìm núm vú đã teo đét và cứng đờ, lạnh ngắt của người mẹ để ngậm. Có đứa trẻ còn thoi thóp đã bị vứt lên xe bò chở xác cùng với người mẹ đã chết để đem hắt ra bãi tha ma… Trong bức thư viết vào tháng 4-1945, về thảm trạng nạn đói ông đã chứng kiến, tác giả Vespi từng mô tả: “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có, đàn ông có, đàn bà có, người nào người nấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc, giơ xương ra và run rẩy. Ngay cả đến những thiếu nữ tuổi dậy thì, đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng hãy còn che thân người đó” (Furuta Motoo – chủ biên, Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam – những chứng tích lịch sử, NXB Khoa học xã hội, H.2005, tr.18).

So sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của các cuộc chiến tranh Pháp – Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nạn đói nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chết một triệu người, nước Đức chết chừng 3 triệu. Thế mà nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ, ta đã chết hơn 2 triệu người” (Văn Tạo – Furuta Motoo, Sđd, tr.699).

Ai là thủ phạm?

Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp không những không bảo hộ được nhân dân Việt Nam như họ vẫn rêu rao, mà từng bước đầu hàng, dần dần cấu kết với phát-xít Nhật để đàn áp nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, vừa bị thực dân Pháp đàn áp, vừa bị phát-xít Nhật hành hạ. Đặc biệt, từ khi đến Đông Dương, phát-xít Nhật đã thi hành hàng loạt chính sách để đánh vào nền kinh tế: Buộc Pháp phải ký kết nhiều hiệp ước yêu cầu cung cấp lương thực, giao nộp lúa, gạo cho Nhật hằng năm, cấm vận chuyển lương thực từ nam ra bắc, kết hợp với chính sách bắt dân nhổ lúa trồng đay lấy nguyên liệu phục vụ chiến tranh,… đã đẩy nhân dân Việt Nam đến nạn đói thảm khốc năm 1945.

Việc vận chuyển thóc gạo từ miền nam ra bị Nhật cấm vận, cùng với việc vơ vét thóc gạo ở miền bắc đã làm cho giá thóc gạo tăng cao quá sức chịu đựng của người dân, nhiều người không đủ sức mua và phải chịu chết đói. Trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH) ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án và nhắc lại sự kiện bi thảm này “Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, H.1995, tr.01).

Công trình nghiên cứu nạn đói năm 1945 của GS Văn Tạo và GS Furuta Motoo chỉ rõ: Chính sách vơ vét thóc gạo của phát-xít Nhật và thực dân Pháp lúc bấy giờ cùng với thiên tai, mất mùa ở nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm cảnh trên. Nhiều công trình nghiên cứu khác nữa đã chứng minh chính thực dân Pháp và phát-xít Nhật là thủ phạm chính gây ra thảm cảnh cho dân tộc Việt Nam khi ấy. Bác sĩ Ngô Văn Quỹ trong một tham luận của mình về nạn đói, cho biết: “Cuối năm 1944, quân số của Nhật ở Bắc Kỳ đã lên tới gần 100.000 người. Bắc Kỳ lúc đó đã thiếu gạo, vì ba trận bão tàn phá các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Dương và Bắc Ninh, làm cho vụ mùa bị thất thâu, lại bị cái họa phải nhổ lúa để trồng cây công nghiệp cho Nhật, nay lại phải nuôi thêm 100.000 miệng ăn của quân đội Nhật. Theo tờ trình của Thống sứ Bắc Kỳ Chauvet, thì vào năm 1944 ở Bắc Kỳ, diện tích trồng cây công nghiệp đã lên tới 45.000 ha” (Nỗi đau lịch sử: Nạn đói 1945, Sđd, tr.45).

Từ khi có mặt ở Đông Dương, ngoài các chính sách tô thuế, Nhật còn đưa ra “chương trình kinh tế chỉ huy” để thực hiện một cách triệt để chủ trương phát-xít của họ. Ngày 6-5-1941, Nhật buộc Pháp ký một Hiệp ước kinh tế yêu cầu hằng năm Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật.

Theo tài liệu của Viện Sử học thì: năm 1941 là 700.000 tấn gạo; năm 1942 là 1.050.000 tấn gạo và 45 tấn bột gạo; năm 1943 là 1.125.904 tấn; năm 1944, mặc dù mất mùa song vẫn phải cung cấp cho Nhật 900.000 tấn. Ngoài ra, Nhật còn cho Pháp xuất khẩu gạo sang các nhượng địa của Pháp ở Trung Quốc. Tham luận của bác sĩ Ngô Văn Quỹ cho biết, ngay trong năm 1945, tức lúc nạn đói lên đến đỉnh điểm, vậy mà theo các tài liệu chính thức của Pháp – Đông Dương đã thu hoạch được 2.700.000 tấn thóc, ước tính nhu cầu của nhân dân chỉ là 1.600.000 tấn; vẫn còn dư ra 1.100.000 tấn. Và ông khẳng định “Thừa thóc, thừa gạo mà để dân chết đói đến 2 triệu người, trước lịch sử, đây quả là một tội ác “trời không dung, đất không tha” (Nỗi đau lịch sử: nạn đói 1945, Sđd, tr.26).

Rất nhiều tài liệu nghiên cứu đều chỉ ra “đích danh thủ phạm” là phát-xít Nhật và đồng phạm là thực dân Pháp. Giáo sư Văn Tạo cũng cho biết: “Trong cuộc trao đổi với tôi ở Tokyo, ông Yuuji đã có lý khi nói: Nhật – Pháp tuy thống nhất với nhau vơ vét thóc gạo nhân dân Việt Nam, nhưng chúng vẫn chuẩn bị diệt nhau. Việc Pháp thu thóc để cung cấp cho Nhật là có, nhưng không phải không lợi dụng lấy thóc đó để dự trữ chống Nhật” (Văn Tạo – Furuta Motoo, Sđd, tr.693). Và Giáo sư kết luận: “Thủ phạm gây ra nạn đói khủng khiếp ở Việt Nam năm 1945 là Nhật – Pháp, mà Nhật là kẻ chịu trách nhiệm chính” (Văn Tạo – Furuta Motoo, Sđd, tr.699).

Tác giả Yoshizawa Minami cũng cho biết “ông Kawai, đảm nhiệm công việc giám sát chuyển gạo từ nam ra bắc qua tỉnh Nam Định, đồng thời là quản lý chung về gạo dự trữ, phân phối trong tỉnh, nói có những nơi vẫn còn gạo chất như núi trong kho quân đội. Không những thế, tại một nhà thờ Thiên chúa giáo trong tỉnh gạo đầy ắp trong kho. Ông đã thuyết phục cán bộ đại sứ quán Nhật Bản mở kho phát gạo nhưng họ không nghe” (Nỗi đau lịch sử: nạn đói 1945, Sđd, tr.56). Còn nghiên cứu của Giáo sư Văn Tạo cho rằng, Thống sứ Bắc Kỳ chủ ý gây ra nạn đói này cho Việt Nam để thực hiện mục đích kép là chính trị và kinh tế. Mục đích chính trị là “hãm bớt nhiệt tình yêu nước” của nhân dân Việt Nam. Mục đích kinh tế là để một vài công ty của Pháp, Nhật mua gạo giá rẻ và bán giá cắt cổ cũng như để dễ dàng tuyển mộ cu-ly cho các đồn điền, hầm mỏ.

Vậy ai đã cứu giúp nhân dân Việt Nam ra khỏi thảm cảnh này? Xin thưa, không phải Pháp, chẳng phải Nhật, cũng chẳng phải triều đình nhà Nguyễn hay Chính phủ Trần Trọng Kim đầu năm 1945 mà là Việt Minh.

Ngày 2-9-1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam DCCH ra mắt quốc dân đồng bào. Một ngày sau đó, ngày 3-9-1945, Chính phủ họp phiên đầu tiên. Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ là cứu đói để vực dậy một dân tộc đã và đang trải qua nạn đói kinh hoàng. Trong phiên họp đầu tiên này, Chính phủ thống nhất với đề xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sáu nội dung cấp bách phải thực hiện, trong đó nội dung đầu tiên chính là cứu đói.

Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Hiện nay những vấn đề gì là vấn đề cấp bách hơn cả. Theo ý tôi, có sáu vấn đề. Một là, nhân dân đang đói. Ngoài những kho thóc của Pháp, Nhật vơ vét của nhân dân, bọn Nhật, Pháp còn bắt đồng bào chúng ta giảm bớt diện tích để trồng thầu dầu, đay và những thứ cây khác cần thiết cho cuộc chiến tranh của chúng (…). Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính sách độc ác này. Vừa rồi nạn lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo (…). Chúng ta phải làm thế nào để cho họ sống. Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất”. (Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, H.1995, tr.7-8). Một trong những việc làm đặc biệt ý nghĩa của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam DCCH là tổ chức lạc quyên cứu đói để kịp thời dập tắt nạn đói. Với quan điểm “chống đói cũng như chống ngoại xâm”, ngày 28-9-1945, Báo Cứu quốc đăng thư của Hồ Chủ tịch gửi đồng bào cả nước kêu gọi mọi người nêu cao tinh thần “nhường cơm, sẻ áo” cứu giúp đồng bào: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, H.1995, tr.31).

Trong cuộc vận động này, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người gương mẫu thực hiện đầu tiên và triệt để, theo đó, nếu những buổi dùng cơm với khách trùng vào ngày nhịn ăn, Người tự động nhịn bù vào ngày hôm sau. Tại buổi khai mạc lễ phát động phong trào cứu đói được tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem phần gạo nhịn ăn của mình đóng góp trước tiên. Tiếp đó, Chính phủ lâm thời Việt Nam DCCH còn áp dụng ngay một số biện pháp cụ thể như cho phép vận chuyển thóc gạo; nghiêm trị những kẻ đầu cơ, tích trữ thóc gạo; cấm dùng gạo vào các công việc chưa thật sự cần thiết như nấu rượu, làm bánh; cấm xuất khẩu gạo, ngô, đậu; cử một ủy ban lo việc vận chuyển gạo từ miền nam ra miền bắc (công việc này bị đình trệ sau đó vì thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ).

Ngày 2-11-1945, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố – một nhân sĩ nổi tiếng – quyết định thành lập Hội Cứu đói. Hội Cứu đói được tổ chức xuống tận các làng. Ngày 28-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh thiết lập Ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế. Ngoài Bộ Cứu tế, một số bộ khác cũng có nhiệm vụ cứu tế và tiếp tế. Hưởng ứng lời kêu gọi tha thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua cứu đói đã diễn ra rộng khắp trên cả nước với rất nhiều sáng kiến, cách làm sáng tạo như tổ chức “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm nhịn ăn”, “Đoàn quân tiễu trừ giặc đói”. Từ đó hàng vạn tấn gạo đã được nhân dân cả nước đóng góp, chia sẻ với đồng bào đang chịu thảm họa của nạn đói, góp phần cứu giúp kịp thời.

Cùng với quá trình khẩn cấp cứu đói, để bảo đảm giải quyết căn cơ và triệt để nạn đói, Chính phủ phát động toàn dân tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Trong tháng 10 và 11 năm 1945, Chính phủ ban hành nghị định giảm 20% thuế ruộng đất, miễn thuế hoàn toàn cho những vùng lụt. Bộ Quốc dân Kinh tế ra thông tri quy định việc kê khai số ruộng đất vắng chủ, số ruộng công và ruộng tư không làm hết, tạm cấp cho nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng.

Ngày 19-11-1945, Chính phủ thiết lập Ủy ban Trung ương phụ trách vấn đề sản xuất. Nhiều chính sách đã được triển khai đồng bộ lúc này như việc ra báo để hướng dẫn nhân dân sản xuất, cho nhân dân vay thóc, vay tiền để sản xuất, cử cán bộ thú y về nông thôn chăm sóc gia súc, gia cầm, chi ngân sách sửa chữa các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một số đê mới. Phong trào tăng gia, sản xuất diễn ra sôi nổi trong khắp cả nước kể từ Chủ tịch, Chính phủ đến mọi cán bộ cao cấp của Đảng ngoài giờ làm việc chính thức đều tham gia. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, phong trào tăng gia sản xuất đã thu được kết quả to lớn. Sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục, nạn đói được đẩy lùi, đời sống của nhân dân, đặc biệt là nông dân dần ổn định.

Chỉ trong năm tháng từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 5 năm 1946, sản lượng lương thực, chủ yếu là màu, đạt tương đương 506.000 tấn lúa, đủ bù đắp số lương thực thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Đến hết năm 1946, nạn đói cơ bản đã được giải quyết. Đó cũng là điều mà ngày 2-9-1946, tại lễ kỷ niệm một năm độc lập – Quốc khánh 1946, đồng chí Võ Nguyên Giáp – khi ấy là Chủ tịch quân sự, Ủy viên trong Chính phủ liên hiệp, tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ”.

Trong tác phẩm Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, nhà sử học Lê Thành Khôi viết về các chính sách và việc đã làm của Chính phủ mới để khắc phục nạn đói như sau: “Một nạn đói mới đang là mối đe dọa cận kề nhất… Nhà nước tung ra một chiến dịch toàn quốc với khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất” và “Không để hoang một tấc đất, một cánh tay nhàn rỗi”. Một nghị định được ban hành sẽ trao đất hoang cho tất cả những ai có thể khai thác. Nỗ lực của mọi người và sự thi đua yêu nước đã dựng lại các con đê, tăng gia sản xuất các hoa màu phụ: khoai lang, ngô, sắn, đậu nành; vụ gặt tháng 5 đảm bảo lương thực cho thời gian giáp hạt” (Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế giới, H.2014, tr.564).

Trong hồi ký của mình, cụ Vũ Đình Hòe, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và Tư pháp của nước Việt Nam DCCH đã đưa vào phần phụ lục nội dung bài viết của Hoàng Văn Đức, Giám đốc Nha Nông chính Bắc Kỳ với tựa đề “Hai thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Theo Hoàng Văn Đức, hai thắng lợi đó là Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 và chiến dịch chống nạn đói cuối năm 1945 đầu năm 1946 với dòng thật xúc động: “Những người đó đã chiến thắng trên đồng ruộng. Động lực giải phóng của Mặt trận Việt Minh, dân tộc Việt Nam nắm vững chủ quyền của mình. Cách mạng đã thắng nạn đói” (Vũ Đình Hòe, Hồi ký, NXB Hội Nhà văn, H.2004, tr.1052)…

Dù thủ phạm gây nên thảm cảnh này cho dân tộc Việt Nam 70 năm trước đã quá rõ ràng, nhưng với tinh thần hòa hiếu và yêu chuộng hòa bình, nhân dân Việt Nam nhất quán chủ trương “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Nhưng chúng ta khẳng định “gác lại quá khứ” không có nghĩa là lãng quên lịch sử, càng không thể đồng tình mà phải vạch mặt những kẻ lợi dụng lịch sử để xuyên tạc, bịa đặt nhằm vu khống Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Theo HỒNG PHÚC / NHÂN DÂN ONLINE

Tags: , ,