Trận Mèo Lửa 1770: Cuộc thảm sát mèo rùng rợn nhất lịch sử Việt Nam

“Hỏa miêu trận” (Trận Mèo Lửa) là một trong những chiến thuật quân sự kỳ lạ, hiếm thấy nhất trong lịch sử Việt Nam và e rằng trên thế giới cũng khó có một trận chiến nào giống như vậy.

Trận Mèo Lửa 1770: Cuộc thảm sát mèo rùng rợn nhất lịch sử Việt Nam

Trong chiến trận thời xưa, nhiều loài động vật như voi, trâu, bò, chó, ong, rắn… đã được sử dụng không chỉ với mục đích uy hiếp tinh thần, làm khiếp đảm quân thù mà còn gây thương vong lớn cho đối phương.

Nhưng dùng mèo như một phần sức mạnh quân đội thì đúng là hiếm thấy. Trận chiến được kể lại dưới đây lại liên quan đến loài mèo và câu chuyện này xảy ra vào thời Lê Trung hưng, thời kỳ mà chế độ quân chủ phong kiến đang gặp khủng hoảng trầm trọng.

Bấy giờ, sau khi giúp vua Lê đánh đuổi họ Mạc, giành lại được Thăng Long, khôi phục đế quyền, các đời chúa Trịnh dần dần lấn át, tước đoạt quyền bính. Nếu ai đó có ý phản kháng đều bị phế truất hoặc bức hại đến chết.

Bất bình trước sự lộng quyền của chúa Trịnh, nhiều hoàng thân quốc thích, quan lại trung thành mưu đồ diệt Trịnh, giành lại quyền lực cho vua Lê, trong số đó nổi tiếng nhất là hoàng thân Lê Duy Mật.

Theo sử sách, Lê Duy Mật là con thứ 11 của Lê Dụ Tông, tháng 12 năm Mậu Ngọ (1738) ông cùng hai hoàng thân là Lê Duy Chúc, Lê Duy Quy và một số văn thần, võ tướng như Phạm Công Thế, Vũ Thước, Lại Tế Thế… mưu dấy binh, đánh vào phủ chúa để diệt Trịnh Giang.

Tuy nhiên sự việc bại lộ phải bỏ chạy khỏi kinh thành. Trong thời gian chạy trốn, Lê Duy Quy rồi Lê Duy Chúc lần lượt lâm bệnh qua đời, Lê Duy Mật đem tùy tùng rút về quê gốc phát động khởi nghĩa, lấy địa bàn hoạt động chính ở vùng thượng du phía Tây Thanh Hóa giáp với Nghệ An giương ngọn cờ “phù Lê diệt Trịnh”.

Để danh chính ngôn thuận, Lê Duy Mật xưng hiệu là “Thiên Nam đế tử” thiết lập bộ máy chính quyền riêng hùng cứ một cõi, có lúc tiến quân đánh đến tận Sơn Tây khiến họ Trịnh lo lắng mất ăn mất ngủ. Tác phẩm Hồng Hoan lương sử có câu:

Ngọc lâu dựng một chương tòa,
Tự xưng đế tử, hiệu là Thiên Nam.

Sách Bình Ninh thực lục do chúa Trịnh sai bề tôi soạn ra cũng phải thừa nhận rằng Lê Duy Mật: “…Tạo ra ấn báu, cờ, gươm, bắt hiếp lấy thổ binh các động sách ven núi, ra vào thượng du Thanh Hoa, chiếm đóng đồn ngoại biên…

Chiếm cứ Trình Quang, đặt thêm cung điện, đặt làm nội ngoại phủ đều xây bằng gạch, lợp bằng ngói; các đồ tiếm dùng long chảo, long sàng, long tọa, long kiệu và đặt ra các hiệu thị vệ Kim ngô, Cẩm y. Qua hơn 10 năm, cờ hoàng ốc, cờ tả đạo, tự xưng hùng một góc trời”.

Các đời chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh nhiều lần đem quân đàn áp nhưng không thành, Trịnh Sâm kế vị ngôi chúa từ năm Đinh Hợi (1767) nhưng mãi đến tháng 8 năm Kỷ Sửu (1769) mới quyết định huy động lực lượng lớn để quyết một phen sống mái với Lê Duy Mật.

Sau nhiều trận ác liệt, quân Trịnh đã tiến được vào khu căn cứ Trình Quang ở phủ Trấn Ninh (nay thuộc Nghệ An), lúc bấy giờ binh lực và bố phòng của Lê Duy Mật như sau:

“Chiến binh ước 3000 người, voi chiến hơn 200 con, ngựa hơn 200 con, súng lớn súng nhỏ trên 1000 khẩu, thuốc súng đạn không thể đếm hết. Khí giới, binh giáp sắc bén, đạn lửa, tên lửa, quả ném, những đồ cần dùng đánh thành, cái gì cũng có.

Ngoài ngụy phủ, bốn bên có 16 đồn liên lạc với nhau, chông giữ cùng nhau. Các đồn thì tầng thứ nhất đắp lũy đất, trên mặt lũy cách một trượng đặt một lầu bắn. Ngoài lũy đất đều trồng tre, cách lũy tre một trượng, đào hào sâu hơn 13 trượng, rộng cũng ngần ấy.

Ở các nơi xung yếu đều cắm chông sắt (chông sắt dài 1 thước 8 tấc, quân ta gọi là “giặc chông sắt”). Ngoài ra đều cắm chông tre như lông nhím. Các hào một trượng lại đặt lũy, ngoài lũy một trượng cắm chông dày như lông thú, trên lũy đặt nỏ gỗ, treo chuông rung, động đến có tiếng vang lên, phòng bị cái gì cũng chu đáo, uy danh không chê được”.

Người thiết lập hệ thống kiên cố rất khó phá vỡ này là một thuộc hạ thân tín của Lê Duy Mật (không rõ tên thật), người làng Ảm Chương, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang).

Sách Bình Ninh thực lục cho biết như sau: “Trong lũ đi theo có người tự xưng làm Thượng tướng Kinh quận công (tục gọi là Quận Mèo, người làng Ảm Chương, huyện Yên Dũng), cũng có thao lược, biết binh cơ (những nghi binh trong đồn đều do Quận Mèo bố trí), Mật thờ như cha, tin như tâm phúc”.

Tấn công nhiều lần đều không thành, tướng Trịnh dùng kế phản gián: “Lúc ấy, Hoàng Ngũ Phúc chiêu dụ được mẹ tên Lại Thế Thiều là viên tướng của Duy Mật, Ngũ Phúc sai mụ này viết thư dụ dỗ Thế Thiều để làm nội ứng.

Thế Thiều là con rể Duy Mật, khi nhận được thư của mẹ, bèn sinh hai lòng với Duy Mật, hắn ngầm khuyên đồ đảng là Lê Văn Bản mở cửa thành ngoài cho quan quân tiến vào”, (Khâm định Việt sử thông giám cương mục).

Trước đó, thấy quân lính rất khó khăn khi đánh phá, vượt qua hệ thống phòng thủ hiểm yếu của Lê Duy Mật, một viên tiểu tướng của quân Trịnh tên là Phạm Sinh có sáng kiến dùng mèo làm kế hoả công.

Theo kế này, quân Trịnh nhanh chóng đi thu bắt ở các làng bản quanh vùng được hàng trăm con mèo, dùng dầu thông, dầu trẩu tẩm vào rồi đốt lửa, lại đánh trống, hò reo làm mèo sợ hãi chạy về phía đồn lũy của đối phương. Mèo chạy thục mạng vì bị đốt nóng, lại bị thúc đuổi đằng sau khiến cho cây cối bốc cháy, rào chắn, đồn lũy bằng tre bị thiêu rụi.

Nhờ nội công ngoại kích, quân Trịnh thắng lớn, Lê Duy Mật thế cùng, dẫn vợ con và thuộc hạ tin cẩn là Quận Đài, Quận Hào, Quận Nhậm, Quận Uyên, Quận Vĩnh và Quận Thìn phóng hỏa tự thiêu. Hôm đó là ngày 22 tháng giêng năm Canh Thân (1770).

Đội quân mèo lửa đã tạo ra một trận hỏa công chưa từng có trong lịch sử, rừng rồi đồn lũy bị cháy, lửa bốc cao và ngày càng lan rộng.

Vốn xuất thân từ người lao động, nhìn cảnh lửa thiêu trụi rừng, lại thấy những cây nứa, cây vầu bị quân lính dẫm vỡ thành từng mảnh, Phạm Sinh liền lấy đan thành những chiếc gầu, lại dạy quân lính làm theo rồi dùng ngay những chiếc gầu tát nước dập lửa.

Khi xét công ban thưởng với những công lao ấy, Phạm Sinh được phong phong làm Phấn dũng tướng quân, tước Quận Công, vì vậy dân gian gọi ông với biệt danh là “Quận Mèo” (khác với quận Mèo ở trên).

Theo truyền tụng tại làng Giai Lãng (gọi tắt là làng Giai) thuộc phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Minh Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) thì Phạm Sinh là người làng này, ông còn có tên khác là Phạm Tú Châu.

Sau chiến thắng, dù chức cao tước lớn nhưng không được bao lâu ông xin về quê sống, đem nghề đan gầu dạy cho dân làng. Gầu trở thành là công cụ tát nước chủ yếu của người nông dân trong mùa vụ, lại là nghề tạo thêm thu nhập nên khi Phạm Sinh mất, dân làng Giai lập đền thờ ông, tôn là Tổ nghề gầu.

Còn về Quận Mèo, người là mưu sĩ của Lê Duy Mật không rõ số phận của ông ra sao. Khi căn cứ Trình Quang thất thủ, trong số những người thân tín tự thiêu cùng Lê Duy Mật không có ông, các thuộc tướng khác người tử trận, người ra hàng, người chạy trốn nhưng đều bị bắt.

Đến khi quân Trịnh “xét tội các tù giặc bắt được ở trước trận, giết những tướng giặc có danh mục vài mươi người” (Đại Việt sử ký tục biên); những người kiệt liệt bị giết cũng không có tên của Quận Mèo.

Như vậy có thể ông đã mất từ trước hoặc bị chết trận trong một cuộc giao tranh trước đó nên không chứng kiến kết cục bi thảm của lực lượng mà ông đã góp phần xây dựng trong gần 30 năm, cũng như không thấy được công trình phòng thủ quân sự do mình lập ra lại bị phá vỡ trước đội quân mèo lửa của một người cũng mang danh là Quận Mèo.

————————

Tài liệu tham khảo

1. Danh tướng Việt Nam – NXB Giáo dục, 1998
2. Đại Việt sử ký tục biên – NXB Văn hóa thông tin, 2011
3. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục – NXB Giáo dục, 1998
4. Những làng văn hóa văn nghệ dân gian đặc sắc tỉnh Thái Bình– NXB Văn hóa thông tin, 2014
5. Tứ bình thực lục thời chúa Trịnh – NXB Văn hóa thông tin, 2009
6. Võ tướng Việt Nam – NXB Văn hóa thông tin, 2007

Theo TRÍ THỨC TRẺ

Tags: , , ,