Sân khấu kịch Hy Lạp cổ đại: Ánh hào quang bất tử

Nghệ thuật sân khấu Hy Lạp ra đời khoảng thể kỷ 6 trước Công nguyên. Nguồn gốc nó là ở những bài hát dithyrambe chúc tụng Tửu thần Dionysos.

Sân khấu kịch Hy Lạp cổ đại: Ánh hào quang bất tử

I – ĐẤT NƯỚC NHỮNG NGƯỜI YÊU NGHỆ THUẬT

Phía Đông – Nam châu Âu nhô ra Địa Trung Hải là một bán đảo gồ ghề bao bọc xung quanh có hàng ngàn đảo nhỏ xanh biếc. Đó là xứ sở một nền thần thoại đẹp đến là kỳ in dấu trên mỗi ngọn núi dòng sông mỗi khu rừng eo biển mỗi thành phố đông vui cho đến mỗi hòn đảo cô đơn giữa mênh mông sóng vỗ đêm ngày.

Đất nước ấy là của những con người có một trí tuệ thông minh linh hoạt những tài năng đa dạng và tinh xảo một khiếu thẩm mỹ tuyệt vời đã sáng tạo ra một nền văn minh chói lọi nhất xưa kia cơ sở đầu tiên vững vàng của nền văn minh thế giới. Đó là cái nôi của nền văn học – nghệ thuật cổ đại mà những thành tựu lớn lao vượt qua những tàn phá của thời gian và những kẻ thù man rợ để mà tồn tại đến ngày nay vẫn không khỏi làm cho chúng ta những con người của cuối thế kỷ 20 phải lạ lùng bỡ ngỡ. Có thật chính họ những con người sống trước chúng ta trên hai nghìn năm trăm năm ấy đã làm ra những điều kỳ vĩ này chăng? Một ngôi điện Parthénon với những hàng trụ cẩm thạch trắng chạy suốt bốn xung quanh với hai trăm năm mươi hai bức phù điêu tuyệt diệu; một bức tượng tròn bằng ngà và vàng của nữ thần Athéna mười hai mét cao; cây hải đăng Alexandrie thư viện Alexandrie với 700.000 cuốn sách… những thiên anh hùng ca bất hủ Iliade và Odyssée những vở kịch Antigone Médée Oédipe… những bộ óc bách khoa như Aristote tất cả những thành tựu đó đều như những tấm huân chương trên ngực biểu dương cái khả năng sáng tạo vô tận của con người.

Nhà triết học nhà khoa học người nghệ sĩ và nhà thơ trong Chàng trai Hy Lạp ngày xưa chính là cái tuổi hoa niên của nhân loại. Phơi phới tình yêu đời và nghị lực say hiểu biết tin ở mình một buổi sáng mùa xuân hoa lá xanh tươi chan hoà ánh nắng chàng trai ôm chiếc huyền cầm đi tìm lên thế giới bao la kỳ diệu của Chín Nàng thơ. Từ chỗ ở thần tiên các Nàng thơ ngày ngày để mắt xuống cõi trần tìm một bóng dáng thân yêu để truyền lại cho đời những tài hoa bất tuyệt. Giữa lúc chờ mong tha thiết ấy chàng trai Hy Lạp bỗng nhẹ nhàng tới gõ cửa tiên cung ra mắt các nàng. Rung động trước vẻ đẹp cân đối hài hoà cao thượng của một chàng trai trẻ các nàng thơ âu yếm san sẻ cho chàng trai tất cả những tinh hoa tài nghệ của mình. Thấy như vậy vẫn chưa đủ bộc lộ hết mối tình gắn bó các Nàng dời luôn chỗ ở của mình xuống ngay xứ sở của chàng trai trên các ngọn núi Pinde Hélicon Parnasse thắm đẹp bốn mùa. Rồi các nàng thay phiên nhau rót chất thần đơn thơm ngát ngọt ngào thanh khiết của mình vào trong trái tim óc và mỗi đường gân thớ thịt của chàng trai.

Bởi vậy mà cái đặc điểm nổi bật của nền văn học Hy Lạp ngày xưa là nó chứa đựng một chất thơ đậm đà man mác. Chất thơ thấm đượm mỗi chiến tích anh hùng qua lời ca của người nghệ sĩ hát rong. Chất thơ say đắm ngọt ngào trong tiếng nói yêu đương của một Sapho nữ sĩ. Chất thơ toả ra từ một câu trả lời nặng ý nghĩa trên miệng vua Xercès (Ba tư) mà nhà sử học đã “thính tai” nghe được. Chất thơ đọng lại sâu nhất trong những thiên bi kịch trong lời Électra khóc em Médée khóc con đội đồng ca ca ngợi con người… ngày nay đi qua những di tích nhà hát cũ người ta nhưng vẫn còn nghe vọng lại những lời thơ đã từng làm say đắm mọi người trong các ngày hội lễ thần Dionysos ở mọi thành bang.

II – NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU HY-LẠP

Nghệ thuật sân khấu Hy Lạp ra đời khoảng thể kỷ VI trước công nguyên. Nguồn gốc nó là ở những bài hát dithyrambe chúc tụng Tửu thần Dionysos (tức thần Bacchus trong thần thoại La Mã). Đây là thời kỳ mà việc thờ cúng tửu thần được lan truyền từ châu Á sang châu Âu. Trong các ngày hội Dionysies đó các bài dithyrambe được các đội đồng ca hát lên gắn liền với những nghi thức diễn trò Satyre tức là diễn lại những cảnh sinh hoạt của vị thần rượu đi đâu cũng có những nàng Ménades (Bacchantes) và những Satyres đầu người mình dê đi theo nhảy múa. La hét như điên như dại. Vật lễ tế Dionysos thường là một con dê. Chữ tragédie (bi kịch) là một từ mới cấu tạo thành bằng hai chữ tragos (con dê) và ode (tụng ca) ghép lại. Đội đồng ca do một nhạc trưởng (coryphée) điều khiển. Trong quá trình chuyển biến dần dần một người (với Thespis) rồi hai người (với Eschyle) rồi ba người (với Thespis) rồi ba người với (Sophocle) trong đội tách ra đối đáp với nhạc trưởng hoặc với nhau và trở thành diễn viên và cái nghi thức hát mừng Dionysos cũng từ đó mà biến đổi tính chất. Lễ mừng thần vẫn còn nhưng từ nó một hình thức nghệ thuật mới có hát có múa và có đối thoại đã xuất hiện có cuộc sống riêng và phát triển: đó là bi kịch.

Dân tộc Hy lạp là một dân tộc rất tôn trọng thần linh và truyền thống cũ yêu cuộc sống vui vẻ hồn nhiên say mê những sinh hoạt ngoài trời. Mỗi năm vào mùa Xuân và mùa Thu có những ngày hội Tửu Thần gọi là Dionysies trong ngày hội đó có những đám rước những trò chơi và riêng hội Dionysie mùa Xuân có tổ chức thi biểu diễn sân khấu. Mỗi nhà thơ dự thi phải trình diễn một bộ ba bi kịch (trilogie) kèm theo một vở kịch châm biếm gọi là satire. Ban giám khảo được chọn bằng hình thức bắt thăm và bỏ phiếu. Họ làm việc khách quan có dựa vào dư luận khán giả. Tất cả các nhà thơ dự thi và diễn viên đều được thưởng tiền. Nhà thơ nào trúng giải nhất thì được vị đứng đầu thành bang đội lên đầu cho một vành hoa chiến thắng kết bằng lá nguyệt quế trường xuân. Hằng năm tên tuổi các đạo diễn tác giả diễn viên chính người lãnh đạo các độ đồng ca và cả ban giám khảo đều được khắc vào bia để lưu lại đời sau. Nhân dân và nhà nước Athènes rất coi trọng và dành cho họ một địa vị vinh quang xứng đáng. nhà nước bỏ tiền ra xây dựng những nhà hát lộ thiên có nhiều bậc ngồi hình vòng cung có thể chứa được hàng vài ba vạn khán giả. Có nhà hát như nhà hát Épidaure chứa được gần bốn vạn rưỡi người. Mỗi năm hai kỳ nhà nước chi cho dân nghèo tiền vé đàn ông đàn bà con trẻ để mọi người được đi xem đủ cả ba ngày biểu diễn. Trong những ngày đó những việc công cộng hội họp… đều nghỉ. Nhà triết học Platon đã gọi một cách hài hước mà đúng rằng “Nhà nước Athènes là một nhà nước sân khấu trị”.

Vì là một nền sân khấu hình thành từ những bài hát dithyrambe và những nghi lễ thờ phụng Tửu Thần cho nên bi kịch Hy lạp có mang theo những đặc điểm rõ rệt phản ánh nguồn gốc của nó.

1 – Nó không chia thành hồi lớp như kịch hiện đại mà diễn một mạch từ đầu đến cuối. Sau mỗi bước tiến triển của hành động kịch tương đương môt hồi thì đội đồng ca lại hát một bài tương đối dài để gói ghém lại (gọi là stasimon) và chuyển tiếp bước sau. Phần lớn các vở kịch đều cấu tạo theo cùng một khuôn khổ năm bước (chúng ta không lạ khi thấy bi kịch cổ điển Pháp chẳng hạn nói chung gồm năm hồi theo khuôn mẫu Hy lạp của nó.

2 – Các kịch bản đều bằng thơ. Phần đồng ca là thơ hát phần đối thoại là thơ ngâm nói. Đồng ca trong bi kịch giữ một vai trò quan trọng. Nó là dấu vết nguồn gốc dithyrambe. Có khi nó là lời phát ngôn của tác giả có khi là lời bàn lời phê phán bình luận của công chúng nhân dân của lẽ phải của lương tri nó mang tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Trong mỗi vở kịch cụ thể đội đồng ca là đại diện của một tầng lớp nào đó trong nhân dân phục trang của nó phải theo đó mà thay đổi ví dụ: trong hai vở kịch liên hoàn Oédipe làm vua và Antigone đó là đội đồng ca các cụ già thành Thèbes. Trong đó Prométhée đó là đội đồng ca các nữ thủy thần đại dương. Trong Électra là đội đồng ca của những cô gái thành Mycènnes. Trong hài kịch Những kỵ binh thì chính đội kỵ binh thật của thành phố đóng vai Đội đồng ca. Trong hài kịch Bầy chim thì đội đồng ca mang áo có cánh và có lắp một cái mỏ chim dài.

3 – Các nhân vật trên sân khấu đều mang mặt nạ và đi hài cao cổ (cothurne). Nhất là những nhân vật hài kịch mà là đối tượng châm biếm của nhà thơ thì mặt nạ thường được vẽ giống như nguyên mẫu mà nó ám chỉ.

4 – Sân khấu có nhiều dụng cụ biểu diễn y như thật. Chẳng hạn Aristophane thường dùng chiếc xe lăn gọi là excyclème để đưa nhân vật tàn tật ra vào. Còn cảnh thì ghép sẵn cả trên sân khấu bởi vì diễn liền một mạch không có chuyện đóng màn nửa chừng. ví dụ: trong hài kịch Những đám mây sân khấu chia ra làm đôi một nửa là nhà của Ba Tròn một nửa là nhà của Socrate.

5- Đề tài những tác phẩm bi kịch còn lại hầu hết đều rút ra từ thần thoại và truyền thuyết nhất là những truyền thuyết quen thuộc như truyền thuyết Agamemnon truyền thuyết thành Thebé truyền thuyết về Hêracles… truyền thuyết thành Troies… một ít vở lấy đề tài lịch sử như vở Quân ba tư của Eschyle.

6- Kết cấu từ chỗ còn hết sức đơn giản mang tính thuần túy tự sự và trữ tình như trong Những thiếu nữ cầu xin chỉ qua có vài ba mươi năm phát triển mà đã đạt đến đỉnh cao về sự chặt chẽ lôgic như trong Édipe làm vua của Sophoche Médée của Euripide.

Người Hi Lạp xưa có những khả năng kỳ diệu để vươn tới đỉnh cao của văn hộc nghệ thuật. Không qua một mẫu mực có sẵn nào họ đã tìm tòi sáng tạo hình thành và khẳng định đủ các loại hình văn học chính và đúng với trình tự lịch sử logic của nó: anh hùng ca thơ trữ tình truyện ký (lịch sử) kịch hùng biện về cả hai mặt lý luận cũng như thực tiễn với những tác phẩm bất hủ mà không một giai đoạn nào về so sánh được. Đó là những bài học vô giá về các phương diện hiểu biết cuộc sống và con người đấu tranh cho lẽ phải và đạo lý nghệ thuật và văn chương.

III – NHỮNG NGÔI SAO SÁNG MÃI.

Thế kỷ thứ 5 trước công nguyên có một năm rất đáng ghi nhớ đối với người Hy Lạp: đó là năm 480 năm mà quân đội Athènes dưới sự chỉ huy tài tình và cương quyết của người anh hùng dân tộc Thémistocle đại thắng quân đế quốc Ba – Tư trong trận thuỷ chiến Salamine: Không đầy ba trăm thuyền chiến nhẹ của Athénes tiêu diệt trên một nghìn hai trăm thuyền chiến hạng nặng của địch… năm ấy ghi lại ba sự kiện liên quan tới ba nhà thơ bi kịch lớn nhất của Hy Lạp:

Eschyle bốn mươi lăm tuổi có mặt trong hàng ngũ đoàn quân chiến thắng trở về.

Sophocle mười sáu tuổi điều khiển Đội đồng ca Thành bang múa và hát khúc khải hoàn trong ngày hội toàn Athénes mừng chiến thắng.

– Cậu bé Euripide khóc tiếng khóc chào đời ngay tại đảo Salamine.

Ba nhà thơ gặp nhau trong một ngày hội mừng chiến thắng chưa từng có của Tổ quốc sẽ còn gặp nhau trong những ngày thi thố tài năng để rồi vĩnh viễn bên cạnh Nữ thần Bi kịch Melpomène kề vai sát cánh bên nhau tên tuổi bên nhau hình ảnh bên nhau tác phẩm bên nhau trong vầng hào quang chói lọi nhân loại dành cho họ trên lịch sử thi đàn sân khấu.

ESCHYLE (525- 456 tr.CN)

Không có tư liệu lịch sử nào nói rõ về cuộc đời của Eschyle. Chỉ biết nhà thơ sinh năm 525 có tham gia trận đánh thắng quân Ba-Tư năm -490 (trận Marathon) năm -480 (trận Salamine) và năm 479 (trận Platée). Ông đã sáng tạo 70 vở kịch và 20 vở Satire nhiều lần dự thi và trên 10 lần được giải nhất. Tiếc thay ngày nay chỉ còn lại 7 tác phẩm:

I – NHỮNG THIẾU NỮ CẦU XIN có thể nói là một trong những tác phẩm đầu tiên của Eschyle. Vở kịch nặng về tính chất tự sự và trữ tình hầu như chưa có gì thật sự là hành động kịch. Nó kể lại câu chuyện năm mươi cô gái của Danaos – cháu năm đời của Êpaphos (Epaphos là con trai của Zeus với nàng Io (xem Prométhée bị xiềng câu 1110 – 1123)- chạy sang đất Argos (Hi – Lạp) xin với vua xứ này được trú ngụ tại đây để tránh cuộc hôn nhân phi đạo lý với năm mươi người anh em của họ.

2 – QUÂN BA-TƯ (472 trước công nguyên) đề tài lịch sử là một vở kịch khác đặc biệt của Eschyle ông ca ngợi mưu trí và tinh thần chiến đấu dũng cảm và chiến thắng của người Hi – lạp không trực tiếp bằng những nhân vật chính diện Hi lạp mà thông qua miệng lưỡi một người lính Ba Tư thất trận kể lại cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai thành Atossa và nỗi kinh hoàng tuyệt vọng của triều đình Ba Tư trước cái tin sét đánh.

3 – BẢY TƯỚNG ĐÁNH THẦN THÈBES (467 trước công nguyên) đề tài lấy ở truyền thuyết gia đình Lapdacos kể lại cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai thành Argos và” Thèbes – bảy cổng” gây ra do mâu thuẫn giữa hai người con trai của Édipe: khi vua thành Thèbes là Édipe phát hiện ra chính mình đã giết cha và lấy mẹ thì ông tự móc mắt và trục xuất mình ra khỏi thành trao quyền lại cho hai con trai là Polynice Étéocle. Hai anh em đã ước định với nhau rằng mỗi người sẽ thay phiên nhau nắm quyền cai trị nước một năm nhưng Étéocle sau khi đã làm vua say mùi quyền bính không chịu trả ngôi báu lại cho anh lại còn mưu mô cùng với cậu là Créon trục xuất Polynice đi. Polynice giận giữ chạy sang Argos lấy con gái vua là Adraste rồi thuyết phục được Adraste cất quân sang vây hãm thành Thèbes: Ở sáu cổng thành chống với sáu tướng Argos do Polynice chỉ huy Etéocle bố trí sáu tướng Thèbes do mình lãnh đạo và dành cổng thứ bảy cho chính mình đánh nhau với anh. Kết quả là Argos thua nhưng cả hai anh em Polynice và Étéocle đều tử trận.

4 – PROMÉTHÉE BỊ XIỀNG (không rõ năm biểu diễn dự đoán có thể năm 469 trước công nguyên) đề tài thần thoại kể lại cuộc đấu tranh bất khuất của vị thần khổng lồ Prométhée vì đánh cắp lửa của mặt trời mang về cho nhân loại và dạy cho con người biết khoa học kỹ thuật văn minh nên bị Zeus trừng trị xiềng xích chân tay và đóng đinh xuyên ngực vào đỉnh núi Caucase.

Bộ ba ORESTIE đề tài lấy ở truyền thuyết Agamemnon gồm ba vở nối tiếp nhau theo thứ tự lịch sử:

5 – AGAMEMNON: Agamemnon vua thành Argos là tổng chỉ huy quân đội Hy Lạp trong cuộc chiến tranh thành Troies. Sau khi chiến thắng trở về ông đã bị vợ là Clytemnestre tư thông với Egisthe (là em con chú của Agamemnon) giết chết và tiếm ngôi. Người con gái của Agamemnon là Electra cứu được em trai là Oreste giao cho người sư phó (người săn sóc dạy dỗ) đưa trốn sang nước Phocée để sau này trở về trả thù cho cha.

6 – NHỮNG THIẾU NỮ VIẾNG MỘ (Les Choéphores) -Hai mươi năm sau Oreste trở theo ý định của Thần linh cùng với chị lọt vào được trong cung điện giết hai tên gian phu dâm phụ báo thù được cho cha.

7 – NHỮNG NỮ THẦN ÂN ĐỨC (Les Euménides)- Nhưng mặc dù việc báo thù cha là chính đáng Oreste vẫn bị các nữ thần báo oán Erinny theo đuổi ngày đêm. Oreste chạy đi đâu cũng không thoát nổi họ. Nữ thần Athéna phải đứng ra dàn xếp. Nàng lập một toà án để xét xử Oreste. Apollon là người bào chữa. Toà án xét xử khá gay go. Apollon biện luận hết tài năng nhưng khi bỏ phiếu kín thì số phiếu chống và thuận ngang nhau. Với tư cách là chủ tịch Athéna đứng về phía thuận. Thế là Oreste được trắng án. Các nữ thần báo oán Erinny được giao thêm trách nhiệm mới họ trở thành những nữ thần ân đức chuyên ban hạnh phúc cho nhân dân Athènes.

Bộ ba Orestie phản ánh hiện thực nào?

Theo lời thần dạy trước đây để có gió thuận cho quân đội Hy Lạp viễn chinh sang thành Troie Agamemnon đã phải hy sinh con gái mình là Iphigénie tại Aulis. Khi thắng trận trở về ông bị vợ là Clytemnestre giết. Để thanh minh cho hành động giết chồng đó bà ta viện lý do là báo thù cho con gái bà Iphigénie. Trừng trị tội giết chồng này Oreste đã giết cả Egisthe và Clytemnestre để báo thù cho cha và được thần linh khuyến khích giúp đỡ và cuối cùng vảo vệ cho Oreste được trắng án có nghĩa là việc giết mẹ báo thù cha đó là chính đáng đúng luật lệ thần linh. Thắng lợi của Oreste phản ánh một bước tiến hoá quan trọng trong xã hội: chế dộ mẫu hệ đang phải nhường bước cho chế độ phụ hệ và trong tình hình chính trị của Hy Lạp thì quyền lực hội đồng Aréogage của tầng lớp quý tộc đang cầm quyền bị lung lay phân hoá trước cuộc đấu tranh của những lực lượng cộng hoà dân chủ. Đây là lúc các nữ thần ân đức đang được đưa vào thời lhượng tại Athènes.

Sau khi biểu diễn bộ ba Orestie năm -458 Eschyle rời Athènes sang Géla một thành phố của Sicile và hai năm sau ông mất tại đó thọ sáu mươi chín tuổi.

Tuy chỉ còn lại bảy tác phẩm nhưng chừng ấy cũng đủ để xác định vai trò lớn lao của Eschyle trong lịch sử phát triển của nền bi kịch cổ đại. Từ Những thiếu nữ cầu xin cho đến bộ ba Orestie tác phẩm cuối cùng của ông Eschyle đã đề cập tới những vấn đề xã hội tiêu biểu liên quan đến những chặng đường phát triển nhất định của lịch sử. Sự đấu tranh cho chế độ hôn nhân cá nhân – một vợ một chồng – thay cho chế độ tạp hôn tinh thần đấu tranh mưu trí và dũng cảm chống xâm lược bảo vệ đất nước sự lên án những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sự nghiệp đấu tranh kiên cường chống bất công và bạo lực vì nền văn minh tiến bộ và hạnh phúc của loài người sự khẳng định tội ác phải trừng phạt… đó là nhưng vấn đề lớn có tầm nhân loại chứ không phải những tình huống cá nhân.

Eschyle là người mở đường đưa vào kịch những tư tưởng cao đẹp những ước vọng trong sáng về một xã hội có quy củ vững vàng xây dựng trên cơ sở có một nhà nước vững mạnh. Ông xứng đáng là người đại diện cho thời kỳ đầu của một chế đô cộng hòa phơi phới trẻ trung đang hình thành và được khẳng định.

Ngoài những tác phẩm ưu tú của mình Eschyle đã góp phần nhiều cho sự phát triển và hoàn thiện dần hình thức nghệ thuật sân khấu. Thespis đã có công tách từng đội đồng ca ra một diễn viên làm cho hình thức kịch được tách ra khỏi hình thức nghi thức tôn giáo để thành một loại hình nghệ thuật có cuộc sống riêng. Eschyle đưa thêm một diễn viên thứ hai rồi Sophocle một diễn viên thứ ba là thật sự mở ra cho kịch một chân trời mới thênh thang. Ông còn chú trọng nhiều đến các mặt phục trang nhân vật trang trí sân khấu thêm những màn múa nhảy… khiến cho hình thức của sân khấu ngày càng phong phú đa dạng ngày càng hấp dẫn và có đủ điều kiện để đạt tới đỉnh cao rạng rỡ của nó với Sophocle.

SOPHOCLE (496-406 tr.CN)

Nếu Eschyle là nhà thơ tiêu biểu cho buổi bình minh của chế độ cộng hòa thì SOPHOCLE tiêu biểu cho thời kỳ cực thịnh của nó thời kỳ Pêriclès.

Là người được các Nữ thi thần ban nhiều ân huệ lại được chịu một nền văn hóa vững chắc Sophocle đã phát triển tài năng rất sớm. Năm 480 cậu thiếu niên mới 16 tuổi Sophocle đã chỉ huy cả một đội đồng ca quy mô toàn thành múa hát mừng tổ quốc Athènes chiến thắng. Hai năm sau chàng thanh niên Sophocle đã xuất hiện trên sân khấu Athènes để tranh giải trong các hội thi. Từ đó suốt bảy mươi năm không ngừng ông cống hiến tài năng lỗi lạc và cả nhiệt huyết của mình cho sự nghiệp sân khấu.

Với tư cách là một công dân tích cực của Chế độ Cộng hòa Sophocle đã tham gia chính quyền được bầu làm stratégos một chức vụ tương đương thành viên hội đồng Nhà nước. Ông đã làm tròn trách nhiệm của mình cũng có đôi thành tích. Nhưng bên cạnh nhà thơ bi kịch thì nhà hoạt động chính trị trở thành mờ nhạt.

Theo tài liệu để lại ông đã sáng tác và trình diễn 20 vở kịch 20 lần đoạt giải nhất trong các hội thi nhiều giải nhì và giải ba thì không bao giờ cả.

Hiện nay ông chỉ còn bảy vở: Ajax giận dữ Những phụ nữ Trachinie Philoctète Édipe ở Colone Antigone Electra.

1 – AJAX GIẬN DỮ : đề tài lấy trong truyền thuyết chiến tranh thành Troie. Sau khi Achille bị Paris em của Hector bắn chết bởi một mũi tên trúng ngay gót chân thì xảy ra cuộc tranh chấp giữa Ajax và Ulysse cả hai tướng tài này ai cũng muốn chiếm một vũ khí thần thánh của Achille về mình… cuối cùng Ulysse được. Ajax giận dữ hóa điên lao vào giữa một đàn cừu mà tan sát vì tưởng đó là quân Hy Lạp trong đó có Ulysse và hai anh em Ménélas và Agamemnon.

Tỉnh ra Ajax biết mình sai lầm hối hận và đau xót chàng đã tự tử. Hai anh em Agamemnon căm thù không cho mai táng. Nhưng Ulysse cao thượng và nghĩ tình đồng đội đã từng chiến đấu vào sinh ra tử bên nhau đã chống lại lệnh cấm đó và cùng với Teucer em của Ajax chôn cất cho chàng.

2 – NHỮNG PHỤ NỮ THÀNH TRACHINIE đề tài lấy trong truyền thuyết Heraclès. Đây là câu chuyện nàng Djanyre con gái vua Éneé xứ Calidon.. Heraclès sau mười hai chiến tích lẫy lừng đã được trả lại tự do. Chàng đã dũng cảm chiến đấu với thần chết Thanatos buộc thần chết phải để cho Alkestis vợ vua Admète được sống lại đánh chiếm thành Troie giúp các thần linh diệt bọn Khổng lồ rồi đến xứ Calidon lấy con gái vua xứ đó là Djanyre làm vợ đưa về Tyrinthe .Giữa đường gặp con sông Evénos nước chảy cuồn cuộn chàng thuê con nhân mã (đầu người mình ngựa) Nessos cõng Djanyre sang sông còn chàng sẽ lội qua theo. Con nhân mã mê sắc đẹp của nàng âm mưu bắt cóc nàng đi liền bị Heraclès giương cung bắn chết. Nhưng để trả thù Nessos cởi chiếc áo đẫm máu của mình trao cho Djanyre và dặn rằng: sau này nếu Heraclès phụ tình hãy đưa chiếc áo này cho chàng mặc là lập tức chàng trở lại với tình xưa… Cách đó ít lâu nghe tin chồng toan yêu một người con gái khác Djanyre bèn gửi chiếc áo đẫm máu của con nhân mã cho chàng. Không ngờ máu độc con long xà giết chết Nessos đã thấm vào chiếc áo vẫn còn tác dụng như trước. Heraclès mặc chiếc áo ấy vào cũng đã bị… chết luôn không cách nào cứu chữa. Djanyre đã giết chồng khi tưởng làm cho chồng trở lại tình yêu xưa. Và Heraclès đã chết vì chính mũi tên của mình tẩm độc. Bị hối hận giày vò Djanyre đã tự sát.

3 – ANTIGONE đề tài lấy trong truyền thuyết gia đình Lapdacos của thành Thebes cũng như tác phẩm Bảy tướng của Eschyle. Đây là một vở kịch giàu chất chiến đấu và nhân đạo… Nó lên án quyết liệt chính sách cai trị tham tàn độc đoán muốn củng cố quyền uy bằng giết chóc. Nó thể hiện nguyện vọng của nhân dân muốn có một chính quyền thật sự dân chủ xây dựng trên cơ sở tôn trọng quyền dân chủ và quyền người. hoà hợp pháp lý và nhân đạo.

4 – ÉDIPE LÀM VUA diễn tả những nỗi đau thương vô bờ bến của một con người mà tiền định là sẽ giết cha lấy mẹ. Édipe đã tìm mọi cách để giẫy ra khỏi tiền định nhưng không thể nào giẫy ra được. Sau khi phát hiện ra tội lỗi hoàn toàn vô ý thức của mình Édipe đã tự giải quyết lấy số phận của mình một cách cực kỳ dũng cảm mà hợp với đạo lý; để cứu lấy nhân dân thành Thebes mà ông đang làm vua qua khỏi bệnh dịch nguy hiểm theo đòi hỏi của thần linh ông đã tự móc mắt và trục xuất mình ra khỏi Thành bang mà ông xiết bao yêu quý.

5 – ÉLÉCTRA– đề tài lấy ở truyền thuyết Agamemnon; nội dung tương tự như vở thứ hai trong bộ ba Orestie:

Sau 20 năm trốn ra nước ngoaì để tránh bàn tay tội ác của mẹ Oreste trở về Mycènes cải trang thành một người khách Phocée liên lạc được với chị là Électra rồi hai chị em lập mưu vào được trong cung điện giết Clytemnestre và Égisthe hoàn thành được nhiệm vụ trả thù cho cha.

6 – PHILOCTÈTE: đề tài lấy ở truyền thuyết chiến tranh thành Troie. Trước khi chết Héraclès trao cho Philoctète cây cung thần diệu cuả mình. Trên đường viễn trinh sang Troie; Philoctète bị tai nạn què chân không đi theo đoàn quân được bị bỏ lại ở đảo Lemnos. Chiến tranh kéo dài lâu quá rồi quân Hy Lạp không làm sao hạ nổi thành. Thần cho biết phải có chiếc cung thần kỳ của Héraclès hiện đang do Philoctète giữ. Ulysse và Néoptolème (tức Pyrrhus con trai của Achille) bàn nhau sang Lemnos lừa Philoctète lấy được chiếc cung đó. Nhưng Néoptolème day dứt lương tâm không đành để Philoctète tay không đau yếu ở lại một mình trên đảo Lemnos hoang vắng bèn nói hết sự thật với chàng và trả lại chiếc cung. Philoctète nổi giận định bắn chết Ulysse thì Héraclès xuất hiện động viên Philoctète lên đường cùng với Ulysse và Néoptolème sang tham gia cuộc chiến ở Troie. Thần Esculape (thần thầy thuốc) sẽ đảm bảo chữa cho chàng lành vết thương.

7 – Vở kịch cuối cùng của Sophocle là ÉDIPE Ở COLONE. Ông viết vở này vào hoàn cảnh con cái ông đối xử với cha không phải đạo.

Édipe sau khi tự móc mắt mình và trục xuất mình ra khỏi thành Thebes được con gái là Antigone dắt đi sang đất Colone- tức Athènes – lúc này do Thésée ông vua anh hùng giỏi nhất Thành bang trị vì. Thésée rất vui lòng niềm nở đón tiếp con người khốn khổ đó. Vì có lời sấm báo trước rằng ngôi mộ của Édipe ở đâu thì xứ đó được thần thánh ban cho đầy ân phúc tên Créon đang lăm le chiếm ngôi vua tới gặp Édipe toan dùng bạo lực mời ông về để “bảo vệ cho thành Thebes” bị Thésée chặn lại. Polynice con trai Édipe đã chạy sang Argos mưu toan mang quân đánh lại em mình là Étéocle để tranh giành lại ngôi vua cũng có ý định đón cha về để bảo vệ cho mình chiến thắng. Cả hai đều bị ông từ chối. Ông quyết định sẽ chết và chôn tại đất Colone xứ sở của vua Thésée anh hùng cao thượng và hiếu khách.

Đây là một tác phẩm chứa đựng niềm tự hào đẹp đẽ về đất nước Athènes và một lơì chúc cuối cùng của nhà thơ cho thành phố quê hương xiết bao yêu thương của mình mãi mãi sẽ được hưởng nhiều ân huệ và sự thương yêu chăm sóc của thần linh.

Người ta kể lại rằng khi tòa án mời ông đến giải quyết mối bất hòa giữa các con ông với ông ông đã đưa kịch bản này thay vào lời trình bày sự việc. Sau khi xem song ai lấy đều xúc động đứng lên công kênh ông và mối bất hòa gia đình cũng tự nhiên được giải quyết.

Hai năm sau Sophocle mất thọ chín mươi tuổi.

* *

*

Bi kịch Hy lạp thực sự ra đời với Eschyle đã thực sự trưởng thành hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao nhất của nó với Sophocle không những trong tổ chức kết cấu cốt truyện mâu thuẫn hành động kịch trong sự bố trí Đội đồng ca trong lời thơ đối thoại mà cả trong tư tưởng chủ đề trong nội dung và phương pháp phản ánh ở từng tác phẩm một : Sophocle bỏ hình thức bộ ba để thực hiện sự hoàn chỉnh nghệ thuật trong mỗi một tác phẩm chặt chẽ hơn nữa trong mỗi lớp mỗi hồi. Édipe làm Vua và Aritigone là những ví dụ điển hình.

Hai nhà thơ hơn kém nhau không đầy 30 tuổi.

Vấn đề ở đây không phải chỉ ở kinh nghiệm và thời gian mà chủ yếu ở quan niệm tâm hồn và phong cách. Eschyle nhìn xã hội và con người ít nhiều qua lăng kính thần thoại cái nhìn khái quát và giàu màu sắc lãng mạn. Một Prométhée bị Zeus xiềng vào núi đá một Oreste giết mẹ trả thù cho cha rồi thoát được sự theo đuổi của các nữ thần báo oán Erinny nhờ có bàn tay và trí tuệ của nữ thần Athéna can thiệp… Con người dưới ngòi bút của Eschyle hình như thoát được tính chất một thứ đồ chơi trong bàn tay của định mệnh vô hình khắc nghiệt. Nhưng dưới ngòi bút của Sophocle con người đã biết tách mình ra đối lập với định mệnh giữ tự do và chủ động.

Trong mọi hành vi và dù cho có bị định mệnh ràng buộc đến mức độ khắc nghiệt nào đi nữa thì con người vẫn đủ sáng suốt và nghị lực để tự giải quyết lấy số phận của mình theo cái hướng mà mình cho là đúng đắn nhất hợp lẽ đời nhất. Ngay cả trong cái chết con người của Sophocle cũng không buông xuôi. Djanyre tự tử. Antigone Hémon Eurydice tự tử Jocaste tự tử Édipe tự móc mắt mình và tự trục xuất. Nhiều cái chết lắm. Bi kịch không đâu bằng. Nhưng mỗi cái chết đều có sự chủ động của nhân vật. Antigone trước khi bị Créon tuyên án đã biết mình sẽ chết và mong chờ cái chết để vĩnh viễn được sum họp với những người nàng mến nàng thương… Hêmon tự tử để chứng minh cho cha rõ chính sách cai trị bạo tàn độc đoán và bảo thủ của ông ta mang đến những hậu quả tai hại như thế nào cho Thành bang và cho chính bản thân ông. Jocaste tự tử không phải là đầu hàng số mệnh mà là trực tiếp chống lại số mệnh và bị lương tâm cắn dứt khi đã giết con để tránh hậu họa cho mình… Và Édipe Édipe suốt cả cuộc đời ông đã đấu tranh không ngừng để làm cho câu sấm của Apollon trở thành vô nghiệm tức là để phủ nhận định mệnh. Đến khi thấy câu sấm của thần ứng nghiệm Édipe vẫn không nhắm mắt đưa chân không muốn mượn sợi dây kết thúc cuộc đời đau đớn. Vì ông còn có một cái đầu biết suy nghĩ sáng suốt và một trái tim dào dạt tình cảm con người. Ông không chết vì chết về âm phủ gặp lại mẹ cha sẽ biết ăn làm sao nói làm sao? Ông cũng không thể sống bình thường để luôn luôn nhìn thấy các con kết quả cuộc hôn nhân tội lỗi. Để tự phạt mình về hai cái tội mà hoàn toàn không phải là do ông làm ra mà do định mệnh buộc vào cho ông đó ông đã tự móc mắt mình và tự trục xuất ra khỏi Thành bang quê hương mà ông đã từng yêu mến cứu vớt… Cho đến phút cuối cùng hành động cuối cùng ý nghĩ cuối cùng Édipe vẫn chủ động tự mình giải quyết số phận của mình tự mình chịu trách nhiệm về mọi hành vi thái độ của mình đúng với cái điều mà lý trí và lương tâm đã chọn.

Nhân vật của Sophocle là như thế bao giờ cũng tỉnh táo sáng suốt và giàu nghị lực mà tình cảm vẫn sâu sắc dạt dào. Aristote nhận định đúng rằng Sophocle miêu tả con người không phải như nó đang tồn tại mà như nó phải vươn lên. Bi kịch Sophocle vì vậy mang ý nghĩa đạo lý sâu sắc là những bài học tốt cho việc xây dựng tính cách con người.

EURIPIDE (480-406 tr.CN)

Euripide xuất thân trong một gia đình quý tộc học rộng tài cao có giao thiệp với những nhà triết học danh tiếng đương thời như Socrate Anaxagoras (vừa là bạn vừa la thầy của Euripide va Périclès) hoặc Protagoras nhà ngụy biện nổi danh: ông có chịu ảnh hưởng của họ ít nhiều nhưng không theo trường phái ai cả.

Tác phẩm đầu tiên của Euripide được biểu diễn những năm 455 trước công nguyên một năm sau khi Eschyle mất. Từ đó cho đến lúc qua đời ông đã sáng tác 92 vở nhưng trong cuộc thi phần lớn là thất bại chỉ trúng giải nhất được 4 hoặc 5 năm. Bi kịch của ông có mặt không giống với bi kịch của Eschyle và Sophocle; có lẽ vì thế mà công chúng chưa quen thưởng thức chưa đánh giá cao chăng?

Nửa không vui vì gặp nhiều thất bại trong nghệ thuật nửa buồn vì cuộc sống riêng tư chắc có những éo le ông đã rời Athènes sang xứ Magnesie tới ở cung vua Macédoine là Archélaos vào năm 480 trước công nguyên và hai năm sau thì qua đời tại kinh thành Pella.

Cứ cái tên mà người ta khoác cho ông – “kẻ ghét đàn bà” – ta cũng có thể đoán được Euripide chắc chắn nhiều lần đau khổ trong tình yêu tới một lúc nào đó đối với phụ nữ ông đâm ra mất lòng tin tưởng. Câu nói chua chát ông đặt vào miệng Mêdée có thể là một bằng chứng về sự việc này: “thiên nhiên đã tạo ra đàn bà chúng ta làm điều thiện thì hoàn toàn bất lực mà làm điều ác thì chúng ta là những người thợ lành nghề“. Nửa do bản tính con người nửa do hoàn cảnh tác động tính tình ông luôn sầu bi cau có thích sự yên tĩnh cô đơn. Điều rất đáng chú ý là trọn cuộc đời ông không hề tham gia và nhận một chức vụ nào dù nhỏ trong bộ máy Nhà nước không có chân trong Hội đồng năm trăm như Socrate không làm tướng cầm quân như Sophocle đã từng làm. Thái độ sống của một nhà thơ uyên thâm thức giả phản ánh một tình trạng xã hội vừa rất phồn vinh đây đang suy sụp dần về lòng tin do cuộc chiến tranh Péloponèse hao tiền tốn của kéo dài suốt ngót ba mươi năm để rồi kết thúc bằng sự thật của Athènes.

Đọc tác phẩm “Những người Acharne” của Aristophane (425 trước công nguyên) ta có thể thấy được nỗi khổ của người dân lao động bao gồm cả nô lệ nông dân thợ thủ công sự phản ứng của nhiều tầng lớp nhân dân đối với chính sách hiếu chiến của nhóm thiểu số cầm quyền.

Theo HOÀNG HỮU ĐẢN BLOG

Tags: , , ,