Quan niệm về cái đẹp nhục cảm của văn hóa Ấn Độ

Trong cảm quan Ấn Độ cổ đại, cái đẹp nhục cảm tồn tại phổ biến trong thế giới. Tuy nhiên, cái đẹp nhục cảm đó gắn với khả năng sinh nở của vạn vật.

1. Mĩ học ấn Độ, trước tiên, là “mĩ học tôn giáo”, bản chất cái đẹp nằm trong sự giải thoát. Nhưng, mĩ học Ấn Độ còn là mĩ học mang tính “vật chất”, với “chất cụ thể của nhục cảm (sensual) cộng với sự huyền bí”. Điều này có nghĩa, cái đẹp trong quan niệm Ấn Độ luôn hài hoà hai yếu tố tôn giáo và thế tục, siêu thoát và trần tục.

Nhục cảm chính là khía cạnh trần tục của cái đẹp trong cảm quan ấn Độ.

“Nhục cảm” vốn là thuật ngữ của mĩ học, được dùng để chỉ loại khoái cảm do ăn uống, do thoả mãn nhục dục… đem lại. Trong nghệ thuật ấn Độ, nhục cảm được thể hiện rõ nhất qua những bức phù điêu tả cảnh nam nữ giao hoan, cảnh phụ nữ ở trần và sự cường điệu các bộ phận sinh sản. Với người ấn Độ, nhục cảm là một giá trị thẩm mĩ mang tính xã hội.

Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu quan niệm về cái đẹp nhục cảm của người Ấn Độ cổ đại qua sử thi Ramayana. Vấn đề này vốn đã được đề cập tới nhiều. Song, ở đây, chúng tôi tập trung tìm hiểu hai phương diện: phương diện bản thể (cái đẹp nhục cảm là gì) và phương diện sinh tồn (cái đẹp nhục cảm tồn tại như thế nào), từ đó, đi đến một khái niệm hoàn chỉnh về cái đẹp nhục cảm trong cảm quan của Ấn Độ cổ đại.

2. Trong cảm quan ấn Độ, cái đẹp nhục cảm là giá trị phổ biến của thế giới. Nếu như vẻ đẹp thân thể của các nhân vật trong sử thi Hi Lạp chỉ được thể hiện qua các định ngữ ngắn gọn, kiểu như: “Hêlen xinh đẹp”, “Bridêit má hồng”, “nữ tì tóc quăn xinh đẹp”… thì các nhân vật của sử thi Ramayana, từ nhân vật phụ nữ cho đến nhân vật anh hùng, từ nhân vật là con người đến nhân vật là thần linh hay yêu quỷ, từ nhân vật phe thiện đến nhân vật phe ác, phần lớn, được miêu tả thân thể đầy gợi cảm: Xita “hông đầy đặn”, “đùi… tròn trĩnh như vòi voi”, “ngực nở nang với đôi vú đầy và nhọn”, “đùi núng nính tròn trĩnh như vòi voi…”; các cung nữ của Ravana “đôi hông là bờ suối”, “eo lưng là sóng gợn lăn tăn”; Rama: “chân tay chàng cân đối”, “bắp vế, nắm tay của chàng rắn chắc”, “rốn sâu, bụng và ngực phủ những vệt lông tơ”; Ravana có “bộ ngực rắn khoẻ… xoa bột đàn hương”… Không chỉ con người, ngay cả thiên nhiên trong sử thi Ramayana cũng đặc biệt ấn tượng ở đường nét, hình dáng của thân thể nữ, hơn nữa là thân thể nữ trong trạng thái hành lạc. Điều này thể hiện rõ nhất qua các phép so sánh, qua việc miêu tả thế giới động thực vật ở thời điểm dậy tình.

Quan niệm coi cái đẹp thân thể là giá trị phổ biến, tất yếu của thế giới, con người trong vị trí nào đều hướng tới cái đẹp của thân thể lí tưởng mang dấu ấn dân chủ của thời đại anh hùng. Nó khác với thời kì xã hội phân chia giai cấp, khi cái đẹp nhục cảm được coi là đặc quyền của các cá nhân ưu tú; như nhận định của Evanina: “ở thời Trung cổ, người ta cho rằng các nhân vật văn học chính diện nhất định phải đẹp. Cái đẹp này phản ánh cái đẹp bên trong. Bởi thế mà người ta cho rằng, chỉ cần kể về cái đẹp bên ngoài của cô gái là đủ”(1).

3. Như vậy, trong cảm quan Ấn Độ cổ đại, cái đẹp nhục cảm tồn tại phổ biến trong thế giới. Tuy nhiên, cái đẹp nhục cảm đó gắn với khả năng sinh nở của vạn vật.

Sử thi Ramayana xuất hiện dày đặc, đặc biệt là phần đầu tác phẩm, mô típ sinh sôi, mô típ cầu con nối dõi, trạng thái giao hoan của vạn vật, như chuyện Đaxaratha lập đàn tế lễ cầu tự, chuyện cuộc giao phối của thần Mahađêva và vợ là Xakti Uma, chuyện con bò cái Xavala có khả năng sinh sản kì diệu… Đây là dấu ấn của tín ngưỡng phồn thực, theo đó, nhục cảm là giá trị phổ biến, tất yếu nhưng không tồn tại cho nó, mà phải thực hiện chức năng đối với thế giới: chức năng duy trì giống nòi, qua đó duy trì sự sinh tồn của thế giới. Quan niệm về cái đẹp nhục cảm như vậy được cố định thành luật (luật Manu). Theo đó, con người có quyền thoả mãn nhu cầu khoái lạc thể xác; không có khoái lạc tình dục và hạnh phúc thể xác, cuộc sống gia đình không thể tồn tại, dòng giống sẽ bị tuyệt diệt.

Việc xác định nội hàm khái niệm cái đẹp nhục cảm trên cho thấy con người Ấn Độ vừa mơ mộng, vừa thực tế; vừa coi nhục cảm là phần tất yếu của cuộc sống vừa yêu cầu nhục cảm phải có ý nghĩa với sự sống. Điều này khiến thủ tướng Nehru từng thốt lên: “Thật thú vị nhận thấy rằng vào buổi bình minh của lịch sử ấn Độ, đất nước này đã… không xa rời các mặt của cuộc sống, không chìm đắm trong mơ mộng về một thế giới siêu nhiên mơ hồ, không thực tế, mà nó đã đạt được… những lạc thú của cuộc đời(2).

Trong cảm quan ấn Độ, nhục cảm còn là sắc thái không thể thiếu của tình yêu đích thực. Có thể thấy điều này qua việc đối sánh tâm trạng nhân vật Rama trước và sau khi Xita bị bắt cóc. Trước khi Xita bị bắt cóc, Rama không một lần quan tâm đến thân thể Xita. Nhưng khi vắng Xita, ở đâu Rama cũng thấy bóng dáng thân thể kiều diễm của nàng. Trong nỗi đau tê dại, Rama tưởng tượng Xita vẫn đang phủ trên thân thể nàng đầy hoa Axôka, “đùi của em thon thả như cây chuối nước, và em che giấu nó sau lùm cây chuối”(3). Rama đắm chìm trong đại dương đau khổ khi tưởng tượng thân thể mĩ miều của Xita đang bị kẻ thù giày vò: “Bộ ngực tròn trắng của nàng ngào ngạt mùi đàn hương vàng, chắc chắn đã đầm đìa máu”(4), “khuôn mặt mà trên đó mái tóc cuốn búp buông xuống như sóng lượn, chắc chắn đã bị cướp mất vẻ đẹp như mặt trăng trong sự kìm kẹp của Rahu”, “Có thể bọn Raksaxa khát máu đã xé nát cái cổ mềm mại đeo dây chuyền vàng của con người mà ta yêu dấu”(5). Nhìn cảnh vật, chàng thấy cái đẹp thân thể hằn in khắp nơi. Trong hương sen của hồ Pampa, Rama thấy đó là hơi thở nhẹ nhàng của Xita; trong cây Tilaka nở hoa, chàng thấy bóng dáng mĩ nhân chuếnh choáng hơi men; trong cây xoài đang độ nở hoa, chàng thấy một mĩ nhân trang sức lộng lẫy bị những ham muốn ái ân giày vò…

Không những thế, cảnh vật trong mắt Rama đâu đâu cũng say trong hoan lạc. So sánh bức tranh thiên nhiên ở chương 38 khúc ca II và bức tranh thiên nhiên ở chương 23, 25 khúc ca IV, chúng ta thấy rõ điều này. Cùng là thiên nhiên của khu rừng ở ẩn, cùng là những con vật ấy nhưng sắc thái khác nhau. Thiên nhiên ở chương 38 khúc ca II hiện lên thơ mộng với trạng thái vốn có; còn thiên nhiên trong khúc ca IV ngập tràn trong trạng thái giao hoan.

Thử thách là sự bất thường của cuộc sống, nhưng chính nó lại bộc lộ phần bản chất hàng ngày bị che lấp; là bước đệm để cuộc sống trở về với quỹ đạo thường có của nó. Sự kiện Xita bị bắt cóc đã làm phát lộ sắc thái trần tục nhất – vốn có của tình yêu: sắc thái nhục cảm.

Tuy nhiên, một phản đề khác được đặt ra là, người Ấn Độ chấp nhận tình yêu mang màu sắc nhục cảm nhưng không chấp nhận tình yêu chỉ có màu sắc nhục cảm. Nhục cảm luôn cân bằng, hài hoà với tâm hồn thánh thiện, trong sáng, với lòng chung thủy, đức hi sinh…

Thực ra, quan điểm coi cái đẹp nhục cảm gắn với tình yêu đã có trong thần thoại. Các nhà nghiên cứu khi dẫn câu chuyện thần Siva bị trúng mũi tên của thần Kama thường chỉ để nói lên truyền thống nhân đạo, nhân văn đề cao tình yêu trong văn hoá ấn Độ. Tuy nhiên, nếu chú ý hơn đến sự sắp xếp của các sự kiện, vai trò của sắc đẹp Uma sẽ thấy rõ quan niệm của người Ấn Độ về quan hệ giữa nhục cảm và tình yêu. Vẻ đẹp gợi tình của Uma không thể tự dưng khêu gợi được dục tình của Siva. Chỉ đến khi trái tim ông tổ của chủ nghĩa khổ hạnh nhức nhối bởi tình yêu thì cái đẹp nhục thể của Uma mới được chấp nhận.

Từ quan niệm cái đẹp nhục cảm gắn với khả năng sinh sản đến quan niệm cái đẹp nhục cảm gắn với tình yêu là bước phát triển của tư duy ấn Độ, truyền thống nhân đạo của ấn Độ. Đó chính là biểu hiện của cái nhìn có văn hoá đối với nhục cảm.

4. Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là khái niệm cái đẹp nhục cảm hoàn chỉnh trong quan niệm ấn Độ. Cái đẹp nhục cảm không chỉ là phương tiện duy trì sự sinh tồn của thế giới mà còn là phương tiện thanh lọc thế giới. Điều này xuất phát từ đặc trưng của đất nước Ấn Độ coi trọng sự rèn luyện đạo đức, chế ngự tinh thần.

Người Ấn Độ đề cao cái đẹp thân thể người phụ nữ nhưng phải gắn với tư cách, nghĩa là sự trinh tiết, lòng chung thuỷ… Người phụ nữ gợi cảm mà không trinh tiết, đó là người phụ nữ dâm dục, đĩ thoã, lăng loàn… và nhất định bị trừng phạt. Có thể thấy điều này qua sự phân chia nhân vật nữ trong sử thi Ramayana thành hai giới tuyến: người phụ nữ trinh thuận (tiêu biểu nhất là Xita) và người phụ nữ lăng loàn (Tara, những người phụ nữ thành Lanka,…). Hai giới tuyến này giống nhau ở cái đẹp thân thể. Song nếu như Xita một lòng sắt son với Rama thì Tara ngay sau khi Vali (chồng Tara) chết đã nhanh chóng vùi mình trong vòng tay của kẻ giết chồng mình là Xugriva, hàng ngày hàng giờ bị thú nhục dục lôi cuốn. Hình ảnh nàng Xita đứng vững trên bờ vực của ham muốn nhục dục mới chính là người phụ nữ lí tưởng theo quan niệm ấn Độ. Nhục cảm là giá trị tự nhiên, song phải gắn với lòng chung thuỷ, đức trung trinh. Nhục cảm không chung thủy, trung trinh đồng nghĩa với dâm loạn, đàng điếm. Có thể thấy điều này qua nhân vật Ahalya thất tiết với chồng, chịu hàng ngàn năm trong am, ngủ trên giường tro, ăn bằng không khí, sống hối hận không ai trông thấy; mụ Xuanapakha lăng loàn, bị lòng dục mê hoặc, hết đòi làm vợ Rama lại đòi làm vợ Lakmana phải chịu hình phạt thê thảm: cắt tai, xẻo mũi…

Tiêu chí về lòng chung thuỷ, đức trung trinh đó đã trở thành luật của ấn Độ. Tước đi tính chất hà khắc vô lí của các hủ tục, chúng ta thấy việc đặc biệt coi trọng đức hạnh người phụ nữ thật sự cần thiết để thế giới tồn tại và phát triển trong trạng thái cân bằng, trong sạch. Nếu coi nhục cảm là giá trị duy nhất, tuyệt đối, thế giới nhanh chóng sẽ ngập trong đồi bại, loạn luân… Nhục cảm gắn với đạo đức mới có chức năng gìn giữ thế giới.

5. Với người ấn Độ, nhục cảm là giá trị tự nhiên phổ biến nhưng nếu con người chấp thủ, coi nhục cảm là giá trị duy nhất, khi đó, nhục cảm đồng nghĩa với tham lam, dục vọng – mầm mống của diệt vong.

Sử thi Ramayana chỉ ra nhục dục là nguyên nhân đẩy con người vào hố sâu đau thương; nó là nguyên nhân đảo lộn mọi chân lí. Điều này có thể thấy rõ qua sự kiện vua Đaxaratha truất quyền lên ngôi của Rama. Cơ chế điều khiển hành động phi lí này là lòng dâm dục của con người. Lòng dục còn nhấn cả nhân loại trong bể khổ đau, từ người đứng đầu vương quốc là Đaxaratha đến thần linh, dân chúng… Sử thi Ramayana miêu tả nỗi đau của vua Đaxaratha thật tinh tế: “Ta đang rơi vào một biển cả mênh mông đau buồn vì Rama vắng mặt, những tiếng thở dài là sóng và xoáy lốc của nó, những cử động của tay là cá, tiếng khóc là tiếng thầm thì sâu thẳm của nó… Những giọt nước mắt giống như những con sông đang dào dạt xông vào nó”(6). Nhiều phép so sánh được tung ra để đặt tình cảnh vướng mắc không gỡ được của vua Đaxaratha vào lòng dâm dục: “Nhà vua tự trói buộc mình bằng một lời nguyền để rồi tự tiêu diệt mình, như một con hươu bị mắc bẫy bởi một sợi dây oan nghiệt(7), “ông ngày càng đau khổ như một con hươu lúc thấy một con hổ cái(8), “ông quằn quại như một con rắn độc ngạt thở vì bị bùa mê(9)… Các hình ảnh đưa ra để so sánh ở đây diễn tả đúng tình cảnh bị động của vua Đaxaratha. Dục vọng đã cướp đi sức mạnh của con người. Trước dục vọng, con người bị tha hoá.

Tóm lại, câu chuyện Đaxaratha cho thấy tác hại của lòng dục, đúng như Rama nhận xét: “nhục dục là mối dục vọng mãnh liệt nhất trong con người, thậm chí mạnh hơn cả lòng tham vàng. Kẻ nào đeo đuổi lòng ham muốn mà quên đi mọi quyền lợi, sẽ mang lại nỗi cơ cực cho những người như vua Đaxaratha”(10).

Quan niệm về cái nhục cảm, nhục dục như vậy liên quan đến triết lí nhân sinh nhà Phật cho rằng nguyên nhân của khổ là “cái nhân dục vô nhai, nó làm cho con người tái sinh hoài; dục vọng đó kết hợp với sự ham thích, dâm dật, lúc nào cũng muốn thoả mãn cho được, nguyên nhân là cái ham mê, ham mê cái thực thể”(11).

Triết lí nhà Phật trong khi chỉ ra căn nguyên của nỗi khổ, cũng vạch ra con đường thoát khổ là diệt dục. Phải tẩy chay lòng hám dục, cuộc sống mới an bằng, tránh được hoạ diệt vong.

Không phải ngẫu nhiên mà sử thi Ramayana dành 2 chương (chương 8, 9 khúc ca V) kể về buồng ngủ của Ravana. Hình ảnh những phụ nữ nằm ngủ chồng chất tạo thành không khí dâm dục đặc quánh bao quanh Ravana: “nàng thì gối đầu lên ngực của nàng khác trong khi một người thứ ba ngả lên đầu người này; một nàng đang nằm trên vạt áo người khác, trong khi một người thứ ba lại ngủ trên ngực của người này. Cứ thế đấy, họ ngủ chung ngủ chạ, kẻ này tựa vào vai kẻ kia”(12). Hơn nữa, khi miêu tả phòng múa của Ravana, hình ảnh những phụ nữ này được xếp lẫn lộn với đống đồ đạc, thức ăn thức uống của chủ nhân (gà, công, nai quay, thịt lợn xông khói tẩm bơ, gà gô, cá và thỏ”, “các thức uống ngon: xúp mặn, vị hơi chua…) cho thấy xu hướng vật chất hóa, dung tục hóa cái nhục cảm của Ravana. Trong sử thi Ramayana, Ravana biểu tượng cho lòng ham muốn vô độ của con người. Quá trình Rama tiết diệu Ravana chính là hành trình gian khổ của mỗi cá nhân thực hành diệt dục để đạt được hạnh phúc đích thực, hành trình con người “thoát khỏi mọi nỗi đau khổ nhờ tự huỷ diệt được mình – theo nghĩa tinh thần” để đạt đến cõi Niết Bàn – sự “an tính”, cân bằng, giao hòa.

Như vậy, việc chú ý đến cái nhục cảm của Ấn Độ chỉ là “cách thức lấy vẻ đẹp của thế giới vật chất như một phương tiện để hướng đạo khát vọng các tín đồ tới vẻ đẹp tâm linh của giác ngộ chân thành(13). Tại các chùa chiền ấn Độ, sự xuất hiện các bức tranh phụ nữ gợi cảm là để nhấn mạnh vào bức thông điệp của Đấng giác ngộ về sự chế ngự, vượt qua cạm bẫy quyến rũ của dục vọng.Vượt qua cái ảo ảnh, giả nguỵ của cái đẹp, con người sẽ tìm thấy cái đẹp đích thực ở cõi thanh tĩnh, an bằng.

Như thế, nhục cảm một khi đã tước bỏ tất cả ý nghĩa xã hội văn hoá nó trở thành lực cản cho sự tồn tại của thế giới. Nhục cảm phải gắn với thế giới thanh sạch, hài hoà, an bằng mới là cái đẹp đích thực trong cảm quan ấn Độ.

Đến đây, chúng ta có thể hình thành một cách cơ bản quan niệm về cái đẹp nhục cảm của Ấn Độ qua sử thiRamayana: cái đẹp nhục cảm là giá trị phổ biến, tự nhiên của cuộc sống, gắn với khả năng sinh sản để duy trì sự sinh tồn của thế giới; gắn với những hành vi văn hoá của con người như tình yêu, đức hạnh, nhân cách… để gìn giữ sự an bằng, sạch trong của thế giới.

Quan niệm cái đẹp nhục cảm như trên xuất phát từ đặc trưng tôn giáo chi phối mọi mặt của đời sống trong truyền thống văn hoá ấn Độ. Tuy nhiên, “mặc dù được chỉ dẫn theo các quy luật, cách thức của mĩ học tôn giáo nhưng cảm xúc vẫn luôn chi phối trong quá trình sáng tạo nên họ không thể không mang vào… những tình cảm nhân bản(13). Điều này chính Krishna Kripalani trong cuốn Literature of Modern India – A panoramic glimpse đã khẳng định: “Sự biểu đạt đầy tính dục rõ ràng không mâu thuẫn với trạng thái thăng hoa về tinh thần và lòng mộ đạo một cách sùng kính” (“Such erotic expression was obviously not inconsistent with flights of spiritual ecstasy or moral piety”) (14).

—————————————————–

Chú thích:

(1) Evanina “Tình yêu và hôn nhân trong văn học Ấn Độ thời trung đại”, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 4/1996, tr.91
(2) Jawaharlal Nehru Phát hiện ấn Độ, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990, tr.106
(3) Ramayana, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.135
(4) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.136
(5) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.135
(6) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.178
(7) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.146
(8) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.146
(9) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.146
(10) Ramayana, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.171
(11) Lê Xuân Khoa Nhập môn triết học ấn Độ, Trung tâm học liệu – Bộ giáo dục, Sài Gòn, 1972, tr.62
(12) Ramayana, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.146 – 147
(13) Lương Duy Thứ (chủ biên) Đại cương văn hoá phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996, tr.200
(14) Krishna Kripalani Literature of Modern India a panoramic glimpse, Nation book trust, India, 1982, tr.73

Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

Tags: , , ,