Lịch sử quan hệ Đại Việt – Champa

Lịch sử quan hệ ngoại giao của Đại Việt với các nước lân bang như Trung Hoa ở phía Bắc, Ai Lao (Lào ngày nay) ở phía Tây, Champa ở phía Nam đã tạo nên một mạng lưới giao thoa chằng chịt tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và xuyên xuốt diễn trình lịch sử Việt Nam. Bên cạnh người láng giềng phương bắc hùng mạnh, luôn có xu hướng thâu tóm, đồng hóa và sáp nhập Đại Việt thành một phần lãnh thổ của họ, Đại Việt còn phải ứng xử với những người láng giềng ở phía Tây và phía Nam. Không to lớn, vĩ đại như người khổng lồ Trung Hoa nhưng Champa và Ai Lao luôn làm cho các triều đại trong lịch sử Việt Nam phải để mắt, tính toán đến mỗi khi có những biến cố quan trọng. Đặc biệt là với người Champa ở phương Nam mà sử Việt hay Tàu trước kia gọi là Lâm Ấp, rồi Chiêm Thành.

Lịch sử quan hệ Đại Việt – Champa

Tác giả: Đinh Đức Tiến.

Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 341, tháng 11/2012.

Xét về thời điểm lập quốc thì nhà nước Champa ra đời từ khá sớm, vào khoảng cuối thế kỷ 2. Vào khoảng thời gian này, các mô hình nhà nước Việt sơ khai đã bị tan rã bởi sự xâm lấn của Trung Hoa và đang trong thời kỳ Bắc thuộc. Do lãnh thổ có khoảng cách xa xôi, địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn nên chính quyền đô hộ không thể can thiệp hoặc xâm lấn quá sâu vào lãnh thổ Champa. Bên cạnh đó, văn hóa Nam Á lại có một hành trình riêng biệt và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Champa nói riêng. Hội tụ hai điều kiện trên, Champa đã phát triển độc lập với một thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa khác biệt so với Trung Hoa. Khoảng thế kỷ 9, 10, Champa đã có những thành tựu rực rỡ về kinh tế, chính trị và văn hóa. Khi đó, Đại Việt mới bước vào quá trình tái cấu trúc mô hình nhà nước độc lập, tự chủ sau nghìn năm Bắc thuộc. Từ khi Champa lập quốc cho đến trước khi Đại Việt tái cấu trúc nhà nước, mối quan hệ bang giao đã diễn ra rồi, mặc dù đó là quan hệ với chính quyền đô hộ. Tuy nhiên, khoảng thời gian này đã tạo tiền đề cho một giai đoạn quan hệ, giao thoa sôi động trong thời Trung đại của lịch sử Việt Nam.

Trong diễn trình lịch sử của Việt Nam, quan hệ giữa Đại Việt và Champa có thể được chia thành 4 giai đoạn chính.

1. Quan hệ giữa chính quyền đô hộ với Champa thời Bắc thuộc

Đây là thời kỳ sơ khởi cho quá trình bang giao kéo dài giữa Đại Việt và Champa sau này. Những dấu ấn không nhiều nhưng cũng đủ cho chính sử Đại Việt ghi chép được một số cuộc đụng độ giữa chính quyền đô hộ với Chiêm Thành (bao gồm cả việc người Chiêm liên kết với một vài cuộc khởi nghĩa của người Việt để chống lại chính quyền đô hộ).

Từ trước năm 192 đến 248, quan hệ giữa chính quyền đô hộ với Champa chủ yếu xảy ra theo con đường chiến tranh. Trong sử sách, gần như không thấy xuất hiện những mối quan hệ giao hảo, triều cống nào. Các cuộc đụng độ xảy ra ngay từ khi nhà nước Champa chưa định hình, cư dân Chăm vẫn là người của những quận, huyện dưới sự cai trị của chính quyền đô hộ. “Đời vua Quang Võ nhà Đông Hán, năm 40, ở Giao Chỉ, hai chị em Bà Trưng khởi nghĩa, man di ở Nhật Nam có hưởng ứng. Nhà Hán sai Mã Viện sang đánh dẹp, không đầy 3 năm bình định hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, nhưng quân Hán vào đến hai huyện Cự Phong, Vô Công của quận Cửu Chân rồi trở lui, chứ không vào đến quận Nhật Nam (tuy nhiên, Mã Viện cũng lập được cột trụ đồng để đánh dấu cương vực ở Hà Tĩnh ngày nay – Đ.Đ.T)(1). Đời vua Chương đế, năm 84, man di ở Nhật Nam có dâng tê và bạch trĩ lên vua Hán để tỏ lòng cung thuận”(2). Năm 137, “…người Man ở huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam (địa giới nước Việt Thường xưa) là bọn Khu Liên đánh quận huyện, giết trưởng lại. Thứ sử Giao Châu là Phàn Diễn đem quân châu (quân của Giao Châu) và quận Cửu Chân hơn 10.000 người đến cứu”(3). Năm 138, “mùa hạ, tháng 5, thự ngự sử Giả Xương cùng với các châu quận hợp sức đánh bọn Khu Liên không được, bị Khu Liên đánh vây, hơn một năm, binh lương không tiếp tế được (4). Liên tục vào các năm 144, 160, 178,… (các sách chính sử có chép khác nhau về niên đại những lần nổi dậy của người Lâm Ấp với chính quyền đô hộ) là các cuộc nổi dậy của người Nhật Nam chống lại triều đình Hán đô hộ. Thông qua các sự kiện này, nhiều học giả như Georges Maspéro, Phan Khoang, Đào Duy Anh, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn,… đều khẳng định, vào nửa cuối thế kỷ 2, với sự nổi dậy của Khu Liên, nhà nước Lâm Ấp (tức vương quốc Champa) đã chính thức ra đời mặc dù họ chưa thống nhất về niên điểm Champa chính thức lập quốc (G. Maspéro cho rằng vào năm 192, Đào Duy Anh cho rằng vào năm 183, Phan Khoang vào năm 192…).

Sau khi người Chăm lập quốc và tự gọi vương quốc của mình là Champa, sử Trung Hoa và Việt gọi là Lâm Ấp, thì mối quan hệ, giao thoa giữa chính quyền đô hộ với Champa bắt đầu. Những lần triều cống ít ỏi vào buổi đầu thành lập quốc gia khiến cho quá trình giao thoa bằng con đường hòa bình diễn ra rất hạn chế. Nhưng nó cũng chính là căn cứ để cho các nhà khoa học sau này đoán định về thời điểm lập quốc của Champa. “Năm 183, nước ở ngoài cõi Nhật Nam trở lại cống hiến, câu ấy có ám chỉ rằng người Man Di ở ngoài cõi Nhật Nam nổi lên bấy giờ đã lập thành nước, nhưng Hậu Hán thư chưa nói rõ là nước Lâm Ấp mà thôi”(5). Nhiều sách sử của Trung Hoa, như Hậu Hán thư, Tấn thư… đều chép việc Lâm Ấp sang triều cống. Tuy nhiên, rất nhiều sự kiện như vậy không thấy có ghi trong các cuốn sử Việt như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử lược… Có thể đó chỉ là mối bang giao trực tiếp giữa Lâm Ấp với triều đình phương Bắc mà không liên quan tới người Việt thời bị đô hộ. Mặc dù vậy, sự kiện năm 248, “thừa dịp ở đất Cửu Chân, bà Triệu khởi binh đánh nhà Ngô, Lâm Ấp đem quân xâm lấn hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, phá hai thành này thành bình địa… Lâm Ấp chiếm được thành Khu Túc”(6). Do không được ghi chép trong sử Việt, học giả Phan Khoang phải trích nguồn từ Tam Quốc Chí, Ngô Chí, Lữ Đại truyện trong Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam, chương 59.

Từ sau năm 248 đến 938, việc định hình quốc gia Champa là dấu mốc vô cùng quan trọng. Nó đánh dấu sự trưởng thành của một tộc người đã hội tụ đủ những tiêu chí cần thiết để trở thành một quốc gia độc lập, từ thiết chế bộ máy nhà nước, hệ tư tưởng, luật pháp, chữ viết đến tổ chức quân đội…, Đặc biệt, việc khẳng định được một quốc gia tự chủ đã dẫn đến định hình một nền văn hóa độc lập. Chính vì vậy, trong quan hệ với chính quyền đô hộ thời gian tiếp theo, Champa đã mang tư cách là một quốc gia độc lập với đời sống văn hóa riêng biệt. Cho đến khi Ngô Quyền chấm dứt nghìn năm Bắc thuộc, đã liên tục xảy ra những cuộc đụng độ giữa Champa và chính quyền đô hộ.

Sau nhiều thế kỷ định hình và phát triển, Champa liên tục đem quân ra xâm lấn đất đai của Giao Chỉ và Cửu Chân, điều này làm chính quyền đô hộ vừa bực tức vừa lo sợ, nên đã cử quân đánh đuổi hoặc chống đỡ. Sau sự kiện 248, đến “năm Quý Sửu (353), mùa xuân, tháng 3, Nguyễn Phu nhà Tấn làm thứ sử Giao Châu, Phu đánh nước Lâm Ấp, phá được hơn 50 lũy. Khi trước nhà Tấn bình nước Ngô, gọi quân ở Giao Châu về, thứ sử Giao Châu là Đào Hoàng dâng thư nói: Giao Châu bên ngoài cách nước Lâm Ấp chỉ độ vài nghìn dặm. Tướng Di là Phạm Hùng đời đời trốn tránh làm giặc, tự xưng vương, nhiều lần đánh phá nhân dân. Vả lại liền với nước Phù Nam, chủng loại rất nhiều, bè đảng dựa nhau, cậy thế đất hiểm không chịu thần phục. Khi trước còn phụ thuộc nước Ngô thì nhiều lần cướp bóc, đánh phá quận huyện, giết hại trưởng lại…”(7).

Trong những năm cai trị, nhà Tấn liên tục phải dẹp yên, chống đỡ sự quấy nhiễu của Champa. Năm 399, “mùa xuân, tháng 3, vua nước Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân, rồi lại cướp Giao Châu. Đỗ Viện đánh phá được (8). Năm 413, “mùa xuân, tháng 2, vua nước Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt cướp quận Cửu Chân. Tuệ Độ đánh chém được”. Năm 415, “người Lâm Ấp cướp Giao Châu, châu tướng đánh lại được”. Năm 420, “mùa thu, tháng 7, Tuệ Độ sang đánh nước Lâm Ấp, phá được, chém giết đến quá nửa. Nước Lâm Ấp xin hàng, Tuệ Độ cho. Những người trước sau bị Lâm Ấp cướp bắt đều trả lại cả. Tuệ Độ ở Giao Châu, mặc áo vải ăn cơm rau, cấm thờ nhảm, làm nhà học, năm đói kém thì lấy lộc riêng để chẩn cấp. Làm việc quan cẩn thận chu đáo cũng như việc nhà, lại dân sợ mà yêu. Cửa thành đêm vẫn mở, ngoài đường không ai nhặt của rơi. Khi Tuệ Độ chết, tặng tả tướng quân, cho con là Hoàng Văn làm thứ sử”(9).

Sang đến triều Tống (thời Nam Bắc triều), chính quyền đô hộ đã từ chối nhận cống nạp của Champa. Sự kiện năm 431, “mùa hạ, tháng 5, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống, xin lĩnh Giao Châu. Tống đế trả lời, vì đường xa không cho”(10). Tiếng là triều cống nhưng thực chất Champa đang có ý đồ nhòm ngó Giao Châu, điều này khiến vua Tống sợ nhận cống nạp sẽ hợp thức hóa địa vị của vua Lâm Ấp về vùng đất mình đang cai trị. Năm 436, “mùa xuân, tháng 2, Tống đế sai thứ sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi đánh nước Lâm Ấp. Trước kia, vua Lâm Ấp sang cống nhưng việc cướp bóc vẫn không thôi cho nên Tống đế sai Hòa Chi đi đánh… Dương Mại nghe tin quân Tống sang, sai sứ dâng biểu xin những người dân Nhật Nam bị bắt trước và nộp một vạn cân vàng, mười vạn cân bạc… Hòa Chi đến đồn Chu Ngô, sai hộ tào tham quân của phủ là bọn Khương Trọng Cơ đi trước đến gặp Dương Mại. Dương Mại bắt lấy. Hòa Chi giận, tiến vây tướng của Lâm Ấp là Phạm Phù Long ở thành Khu Túc. Dương Mại sai tướng là Phạm Côn Sa Đạt đến cứu. Xác đem quân lẻn đường đón đánh Côn Sa Đạt phá tan được. Tháng 5, bọn Hòa Chi lấy được thành Khu túc, chém Phù Long, thừa thắng tiến vào Tượng Phố. Dương Mại đem quân cả nước đến đánh, lấy đồ bọc mình voi, trước sau không hở. Xác nói: Ta nghe nước ngoài có giống sư tử, các giống thú đều sợ. Mới chế hình sư tử để chống lại voi. Quả nhiên, voi thấy đều sợ chạy. Quân Lâm Ấp thua to. Hòa chi lấy được Lâm Ấp. Dương Mại cùng với con chỉ thoát được thân. Lấy được đồ châu báu lạ không biết bao nhiêu mà kể. Xác không lấy một thứ gì, ngày về nhà cũng chỉ có áo lược mà thôi”(11).

Sự kiện duy nhất xảy ra đánh dấu mối quan hệ giữa chính quyền đô hộ nhà Tùy với Lâm Ấp là vào năm 605, “mùa xuân, tháng giêng, Lưu Phương mới bình định đất nước ta, bầy tôi nhà Tùy có người nói rằng nước Lâm Ấp có nhiều của báu lạ, Tùy đế bèn cho Phương làm Hoan Châu đạo hành tổng quản, trù tính việc đánh Lâm Ấp. Phương sai bọn thứ sử Khâm châu Ninh Trường chân đem hơn 1 vạn quân bộ và quân kỵ mã xuất tự Việt Thường, Phương thân suất lãnh bọn đại tướng quân Trương Tốn đem thủy quân xuất tự quận Ti Ảnh. Tháng ấy quân đến cửa Hải Khẩu. Tháng 3, vua Lâm Ấp là Phạm Chí sai quân ra giữ nơi hiểm yếu, Lưu Phương đánh chạy tan. Quân của Phương qua sông Đồ Lê. Quân của Lâm Ấp cưỡi voi lớn bốn mặt kéo đến, quân của Phương đánh không lợi, mới đào nhiều hố nhỏ, phủ cỏ lên trên, cho quân khiêu chiến, đương đánh giả thua chạy. Quân Lâm Ấp đuổi theo, voi nhiều con sập xuống hố, thành ra kinh hãi, quân rối loạn. Phương cho bắn nỏ, voi lùi chạy, xéo giẫm vào hàng trận. Phương nhân thế cho quân tinh nhuệ tiếp theo. Quân Lâm Ấp thua to, bị bắt và chém đến hàng vạn người. Phương tiến quân đuổi theo, đánh mấy trận đều được cả, quá phía nam cột đồng (của Mã Viện) đi 8 ngày mới đến kinh đô của nước ấy. Mùa hạ, tháng 4, Phạm Chí bỏ thành chạy ra biển. Phương vào thành lấy được 18 bộ thần chủ trong miếu, đều đúc bằng vàng (tức 18 đời vua), khắc đá để ghi công rồi về. Binh sĩ thũng chân, 10 phần chết 4, 5 phần. Phương cũng bị ốm, chết ở đường”(12).

Quan hệ giữa Champa với chính quyền đô hộ thời Đường cũng không mấy sáng sủa như các triều đại trước. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cho đến trước năm 938, chỉ có lần đụng độ duy nhất vào năm 722, khi Mai Thúc Loan nổi dậy liên kết với người Lâm Ấp để chống lại chính quyền đô hộ.

Trong gần 1.000 năm, số lần va chạm giữa Champa với chính quyền đô hộ đóng trên lãnh thổ Đại Việt không nhiều nhưng việc đó cũng đánh dấu sự lớn mạnh của Champa. Đây cũng chính là tiền đề mở ra những quan hệ sau này với người Việt và nhà nước Đại Việt trong thời tự chủ. Cũng trong thời Bắc thuộc, quan hệ giữa hai cư dân Việt với Champa không xảy ra nhiều, và tư liệu không cho phép có những suy diễn, đoán định về mối quan hệ đa dạng này cũng như mức độ sâu đậm trong tính chất mối quan hệ ấy. Tuy nhiên, những lần xâm lấn, cướp bóc của quân đội Champa trên địa phận các quận thuộc Đại Việt sau nay ít nhiều cũng đã để lại những dấu ấn nhất định đối với cư dân Đại Việt. Vì thời gian quá dài, lại xảy ra quá nhanh chóng nên đến nay chúng ta khó có thể tìm thấy những dấu vết vật chất còn lại. Duy trong chính sử của Đại Việt có ghi lại hai sự kiện về mối quan hệ đầu tiên giữa cư dân Việt với người Champa.

Sau khi Lý Bí lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, vào năm 543, “mùa hạ, tháng 4, vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua (Lý Nam Đế) sai tướng là Phạm Tu đi đánh tan ở quận Cửu Đức”(13). Sau sự kiện này phải đến gần 200 năm sau, vào năm 722, Mai Thúc Loan đã liên kết với người Chăm để chống lại triều đình đô hộ nhà Đường. Sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư đã dẫn theo Tân Đường thư: “…Tướng giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với nước Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói đến 30 vạn người. Đường đế sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và đô hộ sở là Quang Sở Khách đánh dẹp được” (14).

Hai sự kiện ít ỏi trong một quãng thời gian quá dài khó có thể cho phép chúng ta đưa ra những nhận định có tính chất khách quan về mối quan hệ Việt Chăm và những giá trị văn hóa đã được giao thoa. Chúng ta chỉ có thể lờ mờ nhận thấy rằng quá trình hỗn dung này còn rất yếu bởi những nguyên nhân sau đây. Thứ nhất, những gì mà sử chép được chỉ gồm có các sự kiện một nhà nước Champa đã được định hình và có những hoạt động quân sự quấy nhiễu phần lãnh địa phía Nam thuộc Hán mà thôi (tương đương với vùng Nghệ – Tĩnh sau này). Thứ hai, lúc này, đối với cư dân Việt, yếu tố văn hóa Hán đang xâm thực vào cuộc sống trên kết cấu thượng tầng kiến trúc mà chưa thể chi phối đến những sinh hoạt đời thường. Với tinh thần là chống Hán hóa để bảo tồn gốc Việt của mình, mặc dù người Hán đã rất cố gắng, nhưng cũng không để lại nhiều dấu ấn như mong muốn. Tâm thế đóng kín để tự bảo vệ không mở ra nhiều cơ hội tiếp cận cho các sóng năng văn hóa Chăm. Thứ ba, do người Việt chưa tái định hình được nhà nước hay chưa khẳng định được một nền văn hóa tự chủ, khu biệt với văn hóa Hán nên chưa có cơ hội và điều kiện quan hệ, giao thoa với Champa với tư cách là một quốc gia độc lập. Nhưng với các sự kiện xảy ra không nhiều lại kéo dài trong khoảng thời gian gần 1.000 năm cũng đủ để ta có thể tạm nhận định rằng, những hoạt động quân sự cũng như ngoại giao đã diễn ra từ đây và là tiền đề cho quá trình giao quan hệ giữa Đại Việt với Champa ở giai đoạn sau này.

2. Quan hệ giữa Đại Cồ Việt với Champa

Vào thời Đinh – Tiền Lê, quan hệ giữa Đại Cồ Việt và Champa mang tư cách là hai quốc gia độc lập, tự chủ. Điều này khẳng định rất nhiều cho vị thế của văn hóa Việt với Chăm vốn đã định hình từ trước đó rất lâu và có nhiều thành tựu đáng kể. Việc Đại Cồ Việt tự chủ đã tạo điều kiện cho quan hệ giữa hai quốc gia được đẩy lên mức độ cao nhất, đó là các hoạt động ngoại giao.

Cũng giống như quan hệ với chính quyền đô hộ phương Bắc vào thời Bắc thuộc, đến giai đoạn sau này, quan hệ giữa Champa với Đại Cồ Việt cũng không mấy suôn sẻ. Các cuộc gặp gỡ chủ yếu diễn ra bằng bạo lực và gây chiến ở khu vực biên giới giữa hai nước. Sự kiện năm 979, “phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn hơn nghìn chiếc thuyền thủy quân của Chiêm Thành (Champa) vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư. Do hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang nổi gió lớn nên sau một đêm, thuyền đều chìm đắm, Nhật Khánh và người Chiêm (Chăm) đều chết đuối, duy chỉ có thuyền vua Chiêm được trở về nước. Nhật Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước đây xưng là An Vương, cùng với 12 sứ quân chiếm giữ một chỗ. Tiên hoàng dẹp yên, lấy mẹ của Nhật Khánh làm hoàng hậu, lấy em gái Nhật Khánh làm vợ cho Nam Việt vương Liễn (tức Đinh Liễn), còn sợ sinh biến nên đem công chúa gả cho, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn. Nhưng Nhật Khánh thì bên ngoài nói cười như không, mà trong bụng vẫn bất bình, mới đem vợ chạy sang Chiêm Thành, khi đến cửa biển Nam giới, lấy gươm xẻo má vợ kể tội rằng: Cha mày lừa dối hiếp tróc mẹ con ta, ta há lại vì mày mà quên đức tính của cha mày ư? Mày về đi, ta đi đằng khác để tìm người có thể cứu ta. Nói xong bỏ đi. Đến đây nghe tin Tiên hoàng băng mới dẫn người Chiêm vào cướp”(15). Đó chỉ là một cái cớ khởi binh hợp lý cho Champa vốn có dã tâm xâm lấn Đại Cồ Việt từ rất lâu rồi.

Sau biến cố năm 979 nói trên, khi Lê Hoàn lên ngôi, nhà Tiền Lê phải đương đầu với cuộc tiến công của người Tống ở phương Bắc (năm 981). Ngay sau khi đánh dẹp được quân xâm lược Tống, thanh thế của Lê Hoàn cũng như vương triều Tiền Lê được đẩy lên rất cao. Ngay lập tức, ông đã đích thân dẫn quân đi đánh Champa. Quyết định của Lê Hoàn cho phép đưa ra một số giả định về nguyên nhân: Thứ nhất, ông nhận thấy được mối hiểm họa mà Champa đem lại từ trước đó đối với an nguy của đất nước. Thứ hai, việc thắng nhà Tống chưa đủ uy vũ để thể hiện sức mạnh của nhà nước; hơn nữa, ông cũng muốn Chiêm Thành (Champa) thần phục như một giải pháp đối trọng quyền lực với phương Bắc. Chính vì vậy, ngay sau khi phá Tống, Lê Hoàn gấp rút chuẩn bị lực lượng và tiến hành bình Chiêm. Năm 982, “vua thân đi đánh nước Chiêm Thành thắng được. Trước đây, vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị họ bắt giữ. Vua giận, mới đóng thuyền chiến, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém được Phê Mị Thuế tại trận; Chiêm Thành thua to; bắt sống được binh sĩ không biết bao nhiêu mà kể; bắt được kỹ nữ trong cung trăm người và một người thầy tăng người Thiên Trúc; lấy các đồ quý mang về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì, phá hủy tôn miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư (tức Hoa Lư)”(16). Lần chinh phạt của Lê Hoàn đã mở đầu cho một chuỗi liên tục các sự kiện chiến tranh sau này với cách thức thông thường là dùng quân sự để đè bẹp đối phương và bắt người, lấy của cải mang về. Việc có mặt của nhà sư người Thiên Trúc cũng chính là một trong những dấu hiện cho thấy Phật giáo đã được tiếp nhận và phát triển mạnh ở Hoa Lư, kinh đô của Đại Cồ Việt khi đó.

Lần đại chinh phạt của Lê Hoàn cho thấy sức mạnh quân sự của Đại Cồ Việt đã tỏ ra ưu trội hơn Champa và đặc biệt là thể hiện tư cách một nhà nước có chủ quyền độc lập trước Đại Tống. Năm 986, “(vua) sai Ngô Quốc Ân sang thăm nước Tống để đáp lễ, và nói về việc người Chiêm Thành là Bồ La Át đem hơn trăm người đến quy phụ”(17). Cũng từ những cái cớ Chiêm Thành quy phụ nhỏ bé ấy, Đại Cồ Việt có thể chính danh là nhà nước độc lập, tự chủ quan hệ trực tiếp với Đại Tống.

Sức mạnh của vương triều Tiền Lê khi đó không những đã tạo được uy thế ban đầu cho Đại Cồ Việt mà còn cho Đại Việt sau này trước Champa. Các sự kiện vào năm 989 ghi việc Dương Tiến Lộc làm loạn và quy phụ Chiêm Thành, Chiêm Thành không nhận; năm 994, “cháu vua nước Chiêm Thành là Chế Cai vào chầu. Trước đây, nước Chiêm Thành sai Chế Đông đem dâng sản vật địa phương, vua trách là trái lễ, không nhận. Vua nước Chiêm sợ, sai Chế Cai vào chầu”(18) đã cho thấy uy vũ của Đại Cồ Việt ngay từ buổi lập quốc và sự thần phục đến mức sợ hãi của Chiêm Thành. Tuy nhiên, sự thần phục của Chiêm Thành chỉ thể hiện ra bề ngoài với chiêu thức triều cống sản vật, còn bên trong lại là sự chống đối ngầm, nó sẵn sàng trỗi dậy mỗi khi Đại Cồ Việt (sau này là Đại Việt) suy yếu. Những năm cuối của vương triều Tiền Lê, tức vào năm 997, “mùa thu, tháng 7… Chiêm Thành đem quân nhòm ngó biên giới nước ta”(19). Rồi bản thân trong nội tại của vương triều Tiền Lê cũng xảy ra những mâu thuẫn chính trị, đến nỗi, năm 1005, “mùa đông, tháng 10, Đông Thành Vương thua chạy vào đất Cử Long. Vua (Lê Hoàn) đuổi bắt chạy sang Chiêm Thành…”(20).

Trong một thời gian ngắn ngủi (968 – 1009), trải qua hai vương triều Đinh – Tiền Lê, nhà nước Đại Cồ Việt giao thiệp với Chiêm Thành không nhiều. Tuy nhiên, đó cũng là những dữ kiện đầu tiên về mối quan hệ giữa hai quốc gia độc lập, tự chủ. Hơn nữa, cũng trong thời gian này, chính quyền của hai vương triều đang cố gắng củng cố sức mạnh quân sự là chủ yếu để tạo uy thế ban đầu mà chưa bỏ nhiều tâm sức đến phát triển văn hóa xã hội của đất nước.

3. Quan hệ giữa Đại Việt với Champa

Sang đến thời Lý – Trần, Đại Việt bước vào một thời kỳ mới. Sự lớn mạnh của một quốc gia dựa trên sự tự tin vào tiềm lực quân sự, bản lĩnh chính trị và nền tảng kinh tế xã hội. Vương triều Lý (1009 – 1225), và Trần (1225 – 1400) là kết quả tiếp nối của vương triều Đinh, Tiền Lê. Sau sự kiện Ngô Quyền chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc, vương triều Đinh, Tiền Lê đã xây dựng những viên gạch đầu tiên, mở ra thời kỳ phát triển cho các vương triều sau này. Thời Lý, Trần là sự tiếp nối, kết quả của những điều kiện xã hội trước đó để lại.

Có thể tạm chia tách mối quan hệ Đại Việt – Champa theo hai phương thức cơ bản: một là, qua con đường ngoại giao (triều cống, quy phụ…); hai là, qua con đường chiến tranh (các hoạt động quân sự, cướp bóc, quấy nhiễu…). Đây là thời kỳ bang giao giữa Đại Việt và Champa diễn ra sôi nổi nhất trên nhiều phương diện. Sự thần phục của Champa chủ yếu diễn ra thông qua hình thức triều cống sản vật địa phương. Mặc dù số lượng các sản vật không nhiều nhưng nó đã trở thành biểu tượng thần phục của nước nhỏ, yếm thế hơn một quốc gia cường thịnh. Mặt khác, qua các hoạt động cống nạp của Champa, để đáp lễ, Đại Việt cũng cử sứ thần sang để bày tỏ sự giao hảo, úy lạo và cả phong vương cho các vua Chiêm Thành (Champa) nữa. Cùng với những hoạt động ngoại giao có tính chất nghi lễ nhà nước như vậy, các nhóm người Chăm (có thể tướng lĩnh, thân vương, cư dân…) bị thất thế, sợ nguy hại tới bản thân và gia đình nên kéo nhau sang Đại Việt thần phục. Xu hướng này cũng không chỉ diễn ra một chiều, mà đôi lúc quan, quân, thân vương của Đại Việt bị thất sủng cũng chạy sang Champa để nương náu.

Nhiều cứ liệu lịch sử cho thấy rằng, con đường ngoại giao giữa Đại Việt và Champa thời Lý – Trần khá phát triển. Ngay sau khi triều Lý định đô ở Thăng Long, vào năm 1011, “mùa hạ, tháng 4, nước Chiêm Thành sang dâng sư tử”(21) được coi là sự triều cống đầu tiên. Cho đến năm 1225, khi vương triều Lý kết thúc, đã xảy ra 20 lần triều cống liên tiếp của Champa xen lẫn sự phong vương của Đại Việt cho vua Chiêm (Chăm). Sử chép vào năm 1198, “mùa thu, tháng 7… sứ Chiêm Thành sang cống và xin sách phong cho vua nước ấy”; và, năm 1199, “mùa đông, tháng 10, vua (Lý Cao Tông) ngự đến phủ Thanh Hóa bắt voi. Rồi sai sứ sang phong vua nước Chiêm Thành”(22). Bên cạnh con đường ngoại giao chính thống như vậy, các biểu hiện khác của phương thức này như quy phụ cũng được nhắc đến rất nhiều trong chính sử. Kể từ sự kiện năm 1039, “mùa hạ, tháng 4, con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt, cùng Lạc Thuấn, Sạ Đẩu, Sa Kế, A Thát Lạt sang quy phụ nước ta”(23). Đến cuối triều Lý, tới 4 lần phía Champa có người sang quy phụ, và có lần lên đến hơn trăm người.

Thời Trần (1225 – 1400) là một giai đoạn đặc biệt trong quan hệ giữa Đại Việt và Champa, nửa đầu thì hữu hảo, ấm áp; nửa sau thì nguội lạnh và liên tục chiến tranh. Hoàn cảnh ngoại giao vào đầu thời Trần có chính sách đối ngoại khôn khéo với Champa ở phương Nam, xây dựng lực lượng lo đối phó với Trung Hoa ở phương Bắc. Đặc biệt, sau 3 lần kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, uy thế của Đại Việt tăng lên gấp bội. Cũng chính trong cuộc chiến với kẻ thù chung hùng mạnh như vậy, Đại Việt và Champa đã phải bắt tay nhau để cùng đối phó. Đây cũng là một trong những lý do cơ bản để mối bang giao trở nên nồng ấm giữa hai quốc gia. Và đỉnh cao của sự hữu hảo này chính là cuộc hôn nhân của Chế Mân với Huyền Trân công chúa. Từ 1225 đến trước khi xảy ra các cuộc đụng độ vào khoảng những năm 50 thế kỷ 14, sử chép có tới 21 sự kiện liên quan đến hoạt động ngoại giao, trong đó 16 sự kiện người Chiêm Thành sang triều cống(24), 3 sự kiện liên quan đến việc người Chiêm quy phụ, số còn lại nói về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân và Chế Mân. Ngay sau khi nhà Trần giành được quyền lực từ tay nhà Lý, năm 1228, “mùa đông, tháng 10, nước Chiêm Thành sang cống”(25). Bắt đầu từ đây, vào các năm 1242, 1262, 1265, 1266, 1267, 1269, 1270, 1282, 1293, 1301, 1303, 1305, 1306, 1307, 1342, 1346,… liên tiếp sứ thần hai nước được cử đi qua lại lẫn nhau. Đặc biệt vào năm 1301, “tháng 3, thượng hoàng (Trần Nhân Tông) đi chơi các địa phương, sang Chiêm Thành. Mùa đông, tháng 11, thượng hoàng từ Chiêm Thành về”(26). Chuyến đi này, Thái Thượng Hoàng “đã trót hứa gả con gái cho” Chế Mân, vua nước Chiêm Thành(27). Việc Huyền Trân công chúa lấy Chế Mân khi đó đã gây ra nhiều tranh cãi trong nội bồ vương triều và bản thân cuộc hôn nhân này đã mang đậm màu sắc chính trị. Để lấy được Huyền Trân, Chế Mân đã “đem hai châu ấy (Ô, Lý) làm lễ vật dẫn cưới”; nhà Trần được đất đai và đặc biệt là an ninh biên giới phía Nam quốc gia được bảo đảm.

Bên cạnh những hoạt động ngoại giao có tính chất đi sứhôn nhân, dưới thời Lý – Trần, còn có những sự kiện quy phụ của người Chăm sang đất Việt và ngược lại. Tuy nhiên, những người Việt lưu vong sang Champa lại thường gắn với các cuộc chiến tranh xin không nhắc ở đây mà chỉ đề cập đến những quy phụ của người Chăm sang Đại Việt. Nếu như thời Lý có 4 lần quy phụ thì triều Trần cũng xảy ra 4 lần. Lần thứ nhất, năm 1279, “mùa xuân, tháng giêng, nước Chiêm Thành sai Chế Năng và Chế Diệp sang cống. Bọn Chế Năng xin ở lại làm nội thần, vua không nhận”(28). Lần thứ hai, năm 1352, “mùa xuân, tháng 3, Chế Mỗ nước Chiêm Thành chạy sang nước ta”(29). Lần thứ ba, năm 1390, “tháng 6, con của Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô và em là Chế Sơn Nô sợ bị giết, bèn chạy sang nước ta”(30). Và lần thứ tư, vào năm 1397, “mùa đông, tháng 11, tướng Chiêm Thành là Chế Đa Biệt cùng với em là Mộ Hoa Tử Ca Diệp đem cả nhà sang hàng nước ta”(35). Những lần quy phụ như vậy không cho ta nhiều thông tin để suy đoán về quá trình giao thoa văn hóa Việt – Chăm nhưng lại cho thấy một kênh ngoại giao khác mỗi khi có biến động từ phía bên kia. Đây cũng chính là những tình huống nhạy cảm dẫn đến chiến tranh hoặc quan hệ căng thẳng giữa hai nước.

Bên cạnh các hoạt động ngoại giao qua lại giữa hai nhà nước Champa và Đại Việt thời Lý – Trần thông qua triều cống, quy phụ, hôn nhân thì chiến tranh là con đường thứ hai khiến cho việc giao thoa văn hóa diễn ra hết sức mạnh mẽ. Người Chiêm Thành (Champa) một mặt tỏ ra thần phục Đại Việt, mặt khác lại tổ chức quân đội quấy rối, thậm chí tiến công trực tiếp ra kinh sư Thăng Long. Điều này làm cho các vương triều của Đại Việt luôn phải lưu tâm và tổ chức những cuộc đại chinh phạt nhằm trấn áp sự quấy nhiễu đó. Trong thời Lý, người Champa liên tục có những hành động xâm lấn biên giới phía Nam Đại Việt. Các tướng lần lượt cử đi trấn áp, đánh tan, dẹp yên, tuy nhiên, không được lâu dài. Chính vì vậy, vào năm 1044, “mùa xuân, tháng giêng, phát khí giới trong kho ban cho các quân. Ngày Quý Mão, vua (Lý Thái Tông) thân đi đánh Chiêm Thành”(32) nhằm giải quyết tận gốc vấn đề an ninh biên giới phía Nam cho Đại Việt. Trong cuộc chinh phạt này, vua Lý Thái Tông đã “đem quân vào thành Phật Thệ… Sai sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ nhân dân”(33). Sau cuộc chinh phạt ấy, Champa triều cống đều đặn, nhưng năm 1068, “Chiêm Thành dâng voi trắng, sau lại quấy nhiễu biên giới”(34). Đây cũng chính là cái cớ trực tiếp để vua Lý Thánh Tông mở cuộc đại chinh phạt lần hai vào năm 1069. Sử chép: “…Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người”. Sau cuộc chinh phạt Chiêm Thành này, bên cạnh khối lượng “tù binh” Chăm khá lớn, Đại Việt còn lấy được đất đai do Chế Củ dâng để chuộc tội. Việc “Chế Củ dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội. Vua bằng lòng tha cho Chế Củ về nước”(35) làm cho lãnh thổ của Đại Việt được mở rộng và đặc biệt những hiểm họa về an ninh quốc gia cũng được đẩy ra xa hơn. Nhưng chỉ sau đó vài năm, năm 1074, “Chiêm Thành lại quấy rối biên giới”(36). “Mùa thu, tháng 8,… sai Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành, không được. Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của 3 châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh rồi về”(37). Tuy trận này không thắng, lại không phải là cuộc đại thảo phạt nhưng nó cũng cho ta thấy rằng quan hệ giữa hai nước phụ thuộc rất nhiều vị thế quân sự và tiềm lực kinh tế xã hội.

Bên cạnh những hoạt động quấy nhiễu ở vùng biên giới là cái cớ cho Đại Việt tiến công Champa, còn xảy ra những sự kiện quy phụ của người Việt sang Champa (về hình thức thì cũng giống với sự quy phụ của người Chăm sang Đại Việt nhưng về bản chất lại hoàn toàn khác), đây là lý do thứ hai để Đại Việt xuất quân. Sử chép năm 1104, “mùa xuân, tháng 2, sai Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành. Trước đây, Lý Giác trốn sang Chiêm Thành, nói tình hình hư thực của nước ta. Vua Chiêm Thành là Chế Ma Na nhân thế đem quân vào cướp lấy ba châu Địa Lý mà Chế Củ đã dâng. Đến đây, sai Lý Thường Kiệt đi đánh phá được, Chế Ma Na lại nộp đất ấy”(38).

Sau những cuộc đại chinh phạt lớn của vương triều Lý, cho đến đầu thời Trần, các hoạt động quấy nhiễu lẻ tẻ của người Chăm vẫn diễn ra ở biên giới Đại Việt. Sang nửa đầu thời Trần, những hoạt động quân sự diễn ra rất ít giữa hai quốc gia, hơn nữa, những lần đụng độ này lại thường được giải quyết bằng con đường hòa bình. Sau lần chinh phạt vào năm 1252, “mùa xuân, tháng giêng, vua (Trần Thái Tông) thân đi đánh Chiêm Thành… Mùa đông, tháng 12 bắt được vợ vua Chiêm Thành là Bố Da La và các thần thiếp nhân dân rồi về”(39). Năm 1311, “mùa đông, tháng 12, vua (Trần Anh Tông) thân đi đánh Chiêm Thành”(40), nhưng “trận đánh này không mất một mũi tên mà bình được Chiêm Thành”(41).

Những va chạm quân sự giữa hai quốc gia diễn ra ác liệt lại chủ yếu vào cuối thời Trần. Đặc biệt sau khi Chế Mân chết, xảy ra sự kiện Trần Khắc Chung được cử đi đón công chúa Huyền Trân vào năm 1307. Kể từ đây, những rạn nứt trong quan hệ hai nước càng bộc lộ rõ nét. Trong các cuộc va chạm ban đầu, phần thắng thường nghiêng về Đại Việt, những hoạt động ngoại giao cũng thưa dần và xuất hiện nhiều mâu thuẫn sâu sắc. Đặc biệt, ngay trong lúc bối cảnh của Đại Việt đang suy vi tột độ đến nỗi “bây giờ, thái bình đã lâu, biên thành không có phòng bị, giặc đến không có quân để chống lại”(42), Champa đột ngột hưng khởi dưới triều đại của Chế Bồng Nga, ông vua có tài thao lược, đầy tham vọng và bản lĩnh chính trị. Chế Bồng Nga đánh ra Thăng Long vào năm 1371, “tháng 3 nhuận, người Chiêm Thành sang cướp, do cửa biển Đại An, tiến thẳng đến kinh sư… Vua (Trần Nghệ Tông) đi thuyền sang Đông Ngàn để tránh… quân giặc vào thành, đốt phá cung điện… đồ thư trụi cả” (43). Sau đó, năm 1377, “tháng 11, người Chiêm Thành vào cướp,… giặc biết có phòng bị, mới do cửa biển Thiên Phù tiến thẳng đến Kinh Sư”(44). Rồi, năm 1378 “tháng 6, giặc đánh sông Đại Hoàng, vua sai hành khiển Đỗ Tử Bình chống giữ. Quan quân tan vỡ. Giặc tiến đánh kinh sư, bắt người cướp của rồi về”(45). Sau ba lần Chế Bồng Nga tiến ra Thăng Long, kể từ đó trở đi những trận đánh giằng co liên tục diễn ra ở khu vực biên giới giữa hai nước, cho đến khi Bồng Nga tử trận vào năm 1390.

Sau 20 năm Minh thuộc, Đại Việt có nhiều thay đổi trong bản thân nội tại của nó. Theo tôi, sự thay đổi này đã manh nha và phát triển vào cuối thời Trần. 20 năm Minh thuộc với cú hích của văn hóa Hán khiến nó càng bộc lộ rõ nét hơn nữa trong văn hóa Đại Việt. Kể từ vương triều Lê sơ, mô hình nhà nước của Đại Việt đã hoàn toàn được Hán hóa, hoàn toàn theo tư tưởng Khổng – Mạnh, đặc biệt trên phương diện thượng tầng kiến trúc và tư tưởng chính trị của triều đình quan phương. Rồi dần dà, nó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới lối sống của dân chúng phi quan phương. Chính vì thế, quan hệ Đại Việt – Champa về hình thức không nhiều thay đổi, nhưng bên trong Đại Việt đã có một vị thế, tiềm lực, suy nghĩ và cách thức hành xử đã khác trước kia rất nhiều. Nó càng được khẳng định vào triều vua Lê Thánh Tông, vị quân vương có quyền uy nhất trong lịch sử Việt Nam thời Trung đại.

Về quan hệ ngoại giao, các hình thức cử sứ thần giữa hai quốc gia vẫn diễn ra đều đặn. Chiêm Thành (Champa) vẫn triều cống để tỏ ra thần phục trước thiên triều. Cũng giống với thời kỳ trước, những hoạt động ngoại giao luôn xen giữa các cuộc đụng độ quân sự. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, tâm thế, nội lực của Đại Việt đã có những thay đổi lớn và hoàn thiện mạnh mẽ về mọi mặt từ đời sống chính trị, xã hội đến sức mạnh quân sự. Khi giao hảo với Champa, Đại Việt tự coi mình là thiên triều và gọi họ dân man. Bên cạnh đó, việc chiến đấu chống nhà Minh vào năm 1427 thành công đã làm cho uy lực của vương triều Lê sơ trở nên mạnh hơn bao giờ hết. Nên ngay sau khi chiến thắng, “nước Chiêm Thành cho người sang cống” và để tỏ rõ uy thế của mình, vua Lê Thái Tổ đã “cho ngựa và lụa bảo về, sai thiêm tri khu mật là Hà Lật cùng đi”(46). Cũng trong năm ấy, vào “mùa thu, tháng 7, người Chiêm Thành dâng sản vật địa phương”, và ngay sau đó, “tháng 8, lấy viên ngoại lang là Lê Khắc Hài và Bùi Tất Ưng làm chánh phó sứ mang ngựa và đồ uống rượu bằng pha lê màu xanh trắng sang cho vua Chiêm Thành”(47). Sự cống nạp của Chiêm Thành và sự đáp lễ có tính chất ban phát của vua Lê cho chúng ta nhận định rằng, sức mạnh, uy thế cũng như suy nghĩ của Đại Việt khi đó đã được đẩy cao lên một tầm mới. Sang năm 1434, đã xảy ra một biến cố kép, “Chiêm Thành bắt người ở châu Hóa”(48). Nhưng do vụ bắt người không trót lọt, nên ngay lập tức vua Chiêm Thành đã “sai sứ mang thư và sản vật địa phương sang hiến để cầu hòa thân”(49). Mặc dù triều thần Đại Việt có hặc tội, quở trách, nhưng khi sứ thần trở về nước Chiêm vào năm 1435, vua Lê vẫn “ban cho lụa tấm”(50). Kể từ những năm đầu của vương triều Lê sơ cho đến khi suy vong vào đầu thế kỷ 16, Chiêm Thành cho sứ thần sang cống nạp, dâng các sản vật địa phương vào các năm 1448, 1449, 1467. Tuy nhiên, quan hệ ngoại giao vào thời kỳ này có vẻ không suôn sẻ như thời Lý – Trần, sứ thần được cử sang mỗi khi Chiêm Thành (Champa) phạm vào điều gì đó với Đại Việt. Việc cử sứ thần sang chỉ có tính chất hòa hoãn xung đột quân sự giữa hai quốc gia mà thôi. Điều này cũng làm triều đình nhà Lê liên tục hặc tội sứ thần của Champa về lễ giáo, việc cướp phá ở vùng biên giới… Sử chép, năm 1449, “mùa thu, tháng 7,… sứ Chiêm Thành là bọn Bô Sa Phá Tham Tốt cùng đi với Nguyễn Hữu Quang sang. Vua sai tư khấu Lê Khắc Phục và nạp ngôn Nguyễn Mộng Tuân hỏi vặn sứ Chiêm thành về tội giết vua (Champa). Sứ Chiêm Thành không trả lời được, chỉ lạy tạ mà thôi”(51). Rồi năm 1467, “tháng 3, sai thượng thư Lễ bộ Lê Hoàng Dục đặt yến đãi sứ thần Chiêm Thành ở quán Bắc sứ. Sai nội quan hỏi sứ thần nước Chiêm về lẽ nước nhỏ kính thờ nước lớn. Sứ Chiêm Thành trả lời: Nước Chiêm tôi đối với thánh triều như là con nhờ cậy cha mẹ, bảo thế nào thì nghe theo thế.“(52). Bên cạnh các hoạt động ngoại giao chính thống như vậy, dưới triều Lê sơ cũng xảy ra một vài lần quy phụ vào các năm 1434, 1448. Riêng lần quy phụ năm 1448, sử chép: “… Người Chiêm Thành là Phan Mỗ đem đàn ông, đàn bà hơn 340 người sang hàng. Xuống chiếu cho ở các đạo”(53).

Mặc dù uy vũ của triều Lê sơ đối với Champa đã lớn mạnh đến mức “bảo thế nào thì nghe theo thế”, nhưng các hoạt động quấy nhiễu vẫn liên tiếp xảy ra ở khu vực biên giới hai nước. Năm 1434, “Chiêm Thành bắt người Châu Hóa. Vua Chiêm Thành là Bố Đề nghe tin Thái Tổ băng, thấy vua mới lên ngôi, ngờ rằng trong nước có biến loạn, bèn thân đem quân ra đóng ở cõi gần”(54). Năm 1445, “mùa hạ, tháng 4, người Chiêm Thành đến cướp thành An Dung ở châu Hóa”(55). Những lần quấy nhiễu như vậy, ngay lập tức, triều đình Đại Việt tổ chức phản công. “Tháng 12, sai Bình chương sự Lê Khả đem quân đi đánh Chiêm Thành”(56). Lần chinh phạt này kéo dài cho đến năm 1446, thì “mùa hạ, tháng 4, các quân của Lê Thụ đánh phá được thành Chà Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai, và các phi tần, bộ thuộc, ngựa voi, đồ quân khí của các tướng đầu hàng rồi về”(57).

Sự kiện năm 1469, “tháng 3, người Chiêm Thành đi thuyền vượt biển để đến quấy châu Hóa”(58). Và việc năm 1470, “tháng 8, quốc vương Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn thân đem quân thủy bộ voi ngựa hơn 10 vạn đánh úp châu Hóa”(59). Đã trở thành cái cớ hợp lý cho Lê Thánh Tông tiến hành cuộc đại chinh phạt Chiêm Thành lớn nhất trong lịch sử Trung đại Việt Nam. Sự kiện năm 1471 đã trở thành niên điểm vô cùng quan trọng trong lịch sử quan hệ giữa Đại Việt và Champa. Rất nhiều học giả đã đồng thuận với quan điểm, sau trận chiến này, Chiêm Thành không còn đủ sức gượng dậy được nữa. Để chuẩn bị cho cuộc chinh phạt với quy mô lớn, Lê Thánh Tông đã cất công làm rất nhiều thủ tục khác nhau, từ việc năm 1470, “mùa đông, tháng 10 sai sứ sang nước Minh. Nguyễn Đình Mỹ tâu việc Chiêm Thành quấy nhiễu biên giới”(60). Cho đến việc, “tháng 11, ngày 6, vua xuống chiếu thân đi đánh Chiêm Thành”(61). Sự chu đáo về mọi mặt, đã khiến vua Lê Thánh Tông tổ chức cuộc chinh phạt được chính danh, thuận lẽ đứng từ nhiều góc độ. Việc chinh thảo đã được đặc biệt mô tả trong các pho chính sử của Đại Việt. Ngay sau khi giành được thắng lợi to lớn, Lê Thánh Tông đã nhanh chóng “lấy đất Chiêm Thành đặt làm thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa. Đặt chức án sát ở 12 thừa tuyên và đặt 3 ty”(62). Việc làm mạnh tay về quân sự, bài bản về hành chính và tham vọng chính trị của Lê Thánh Tông đã gần như làm cho Chiêm Thành kiệt quệ, không gượng dậy được nữa. Mặc dù trong thời gian sau này, cũng có một vài lần người Chiêm quấy nhiễu ở vùng biên giới song mọi cố gắng đó đều không kéo dài được bao lâu.

4. Quan hệ với chúa Nguyễn ở Đàng Trong

Sau vương triều Lê sơ, lịch sử Việt Nam cũng như Champa xảy ra nhiều bước ngoặt làm thay đổi cục diện. Đặc biệt, sự kiện 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Quan hệ Đại Việt – Champa được đặt vào một bối cảnh mới, phức tạp trong nội bộ vương triều của người Việt với nhiều thế lực cát cứ, âm mưu soán đoạt. Sự lớn mạnh của chính quyền Đàng Trong đã phân chia cục diện Đại Việt thành hai nửa. Đàng Ngoài vua Lê, chúa Trịnh với quyền uy, bề thế đã được xây dựng từ nhiều thế kỷ. Đàng Trong là đất mới, lưu dân thưa thớt, tiềm lực kinh tế cũng như quân đội không mạnh, lại vẫn còn đó một Champa tuy nhỏ bé, thoi thóp nhưng cũng khiến các chúa Nguyễn phải phiền lòng. Sức ép từ phía Bắc liên quan đến sự tồn vong của mình khiến các chúa Nguyễn phải hết sức khôn khéo, cởi mở trong chính sách cai trị, thực dụng trong cách thức dùng người. Và đặc biệt, Nam tiến để mở rộng lãnh thổ, trừ đi mối hậu họa từ phía sau lưng. Chính vì vậy, quan hệ với Champa thời kỳ này của các chúa Nguyễn trở thành nhân tố chủ động trong mọi quan hệ. Mặc dù Champa cũng chống trả quyết liệt, nhưng đến năm 1693, “chúa Nguyễn đã chiếm hết đất Chiêm Thành (Champa), chỉ để lại cho họ khoảnh đất Thuận Thành và một tước Phiên vương mà cũng do quan ta kiểm soát, để an ủi họ mà thôi. Nhưng rồi sau đó cũng chẳng bao lâu, biến cố dồn dập, Thuận Thành cũng bỏ và Champa bị xóa hẳn tên trên bản đồ”(63). Liên tiếp vào các năm 1611, “bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ, quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới, chúa sai chủ sự là Văn Phong đem quân đi đánh lấy được”(64). Năm 1629, “Văn Phong ở Phú Yên dùng quân Chiêm Thành làm phản. Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên”(65). Một chính sách rất khôn khéo của các chúa Nguyễn đã được thực thi vào năm 1648, sau khi cuộc Nam chinh của quân Trịnh bị đại bại. Chúa Nguyễn đã bắt được nhiều tướng Trịnh và 3 vạn quân, để thuận một công lại được nhiều việc. Chúa nói: “Hiện nay, từ miền Thăng (tức phủ Thăng Bình) Điện (tức phủ Điện Bàn) trở vào Nam đều là đất cũ của người Chàm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng vào an tháp đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí, chia ra từng bộ, từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong khoảng mấy năm, thuế má thu được có thể đủ giúp quốc dụng, và sau hai mươi năm, sinh sản ngày nhiều, có thể thêm quân số, có gì mà lo về sau”(66). Năm 1653, “bấy giờ có vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm xâm nhập Phú Yên, sai Cai cơ Hùng Lộc làn Thống binh, Xá sai Minh Vũ làm tham mưu, lãnh 3000 quân đi đánh”(67). Trận này quân Nguyễn đại thắng, cuộc xâm lấn sâu vào đất Champa đã tiến thêm được một bước nữa. Và sau trận này, “chúa y cho, khiến lấy sông Phan Rang làm giới hạn, từ phía đông sông đến địa đầu Phú Yên chia làm hai phủ Thái Khang và Diên Ninh… Đặt dinh Thái Khang cho Hùng Lộc trấn giữ. Phía tây Phan Rang vẫn về Chiêm Thành, bắt giữ lệ chức cống”(68). Từ sau trận đánh này, phải cho đến 1692, “mùa thu, tháng 8, vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Dinh Bình Khang đem việc báo lên. Chúa sai Cai cơ Nguyễn Hữu Kính làm Thống binh, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu suất lãnh quân Chính dinh, cùng quân Quảng Nam và Bình Khang đi đánh”(69). Trận đánh này kéo dài sang năm 1693, “mùa xuân, tháng giêng, bọn Thống binh Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ chạy. Tháng 3, Nguyễn Hữu Kính bắt được Bà Tranh và bề tôi là Tả trà viên Kế Bà Tử với thân thuộc là Nàng mi Bà Ân đem về. Chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành”(70).

Qua các sự kiện ghi trong các bộ chính sử của Đại Việt, quan hệ Đại Việt – Champa trong lịch sử diễn ra với nhiều biến cố phức tạp. Có thể nói đây là mối quan hệ của hai vương quốc có cùng cơ tầng văn hóa bản địa Đông Nam Á nhưng lại tiếp thu hai hệ tư tưởng và mô hình nhà nước khác nhau. Nhà nước Đại Việt vận hành theo cơ chế Đông Á, còn Champa lại vận hành theo cơ chế Nam Á. Với mô hình học tập từ Trung Hoa, theo hệ tư tưởng Khổng Mạnh, Đại Việt đã nhanh chóng xây dựng một nhà nước quân chủ tập quyền chuyên chế vững mạnh. Champa xây dựng mô hình một nhà nước quân chủ phân quyền dựa trên bệ đỡ của hệ tư tưởng Bàlamôn giáo đã khiến họ trở thành một trong những quốc gia thuộc Ấn theo cách gọi của các học giả Pháp. Mối bang giao giữa Đại Việt và Champa cũng diễn ra theo hai con đường cơ bản: hoà bình và chiến tranh. Sự tiếp nhận văn hóa Chăm của người Việt đã trở thành một nhu cầu cần thiết trong giai đoạn đầu của thời tự chủ. Sau khi trải qua gần 1.000 năm Bắc thuộc, sự áp đặt của người Hán đã khiến người Việt phải tự xây dựng một nền văn hóa của riêng mình để khẳng định vị thế độc lập. Một mặt vừa tiếp thu có chọn lọc văn hóa Hán nhưng mặt khác phải tìm đến và tiếp nhận thêm những yếu tố văn hóa phi Hán, có nhiều điểm tương đồng với văn hóa Việt. Champa như một trong những nhân tố cần thiết cho quá trình tự khẳng định của Đại Việt. Tuy nhiên, sau khi đã tự khẳng định được một nền văn hóa độc lập, tự chủ, khá hoàn thiện vào cuối đời Trần và phát triển mạnh vào thời Lê sơ, sự quấy nhiễu, Bắc tiến liên tục của người Chăm đã khiến an ninh Đại Việt bị đe dọa. Đại Việt đã có những phản ứng mạnh mẽ với Champa, về quân sự cũng như văn hóa. Tuy vậy, quan hệ Đại Việt – Champa trong lịch sử diễn ra như vậy, đã khiến cho Đại Việt tự sản sinh ra những yếu tố văn hóa phi Hán, từ đó khẳng định sự khác biệt, độc lập với tư cách một nhà nước tự chủ.

5. Tạm kết

Xét trên phương diện lý thuyết đơn thuần thì các học giả chia giao thoa văn hóa thành hai hình thức cưỡng bức và tự nguyện, tương ứng với hai con đường chiến tranh (chiến tranh quân sự, cướp bóc…) và hòa bình (các hoạt động ngoại giao, trao đổi thương mại…). Nhưng dưới góc nhìn khác, tôi cho rằng, khi tiếp nhận giá trị của một nền văn hóa khác thì luôn là tự nguyện, không có cái gọi là cưỡng bức hay ép buộc. Chỉ có phương thức đưa đến sự giao thoa là theo hai con đường hòa bình và chiến tranh. Chính vì vậy, trong quá trình giao thoa văn hóa, người Việt đã tiếp nhận tự nguyện được một phức hợp những giá trị của nhiều nền văn hóa của người Hán, người Ấn Độ (thông qua Champa) bằng nhiều con đường khác nhau. Nhưng xét trên bình diện chung, văn hóa Chăm đã giao thoa và được tiếp biến với văn hóa Việt qua hai phương thức cơ bản: hoạt động ngoại giao và hoạt động quân sự. Và bản thân văn hóa Chăm cũng đã chịu nhiều sự Việt hóa từ văn hóa Việt truyền thống có cùng cơ tầng bản địa Đông Nam Á. Chính sự đan xen, phức hợp nhiều nền văn hóa khác nhau, trong đó chủ đạo là văn hóa Hán mang tinh thần áp chế, nổi trội của hệ tư tưởng Khổng Mạnh và văn hóa Ấn, thông qua Champa, đã có sức sống len lỏi, hòa quyện và trầm lắng trong nền văn hóa Việt. Điều này làm cho chúng ta nhiều khi hết sức khó khăn khi nhận diện cụ thể đâu là những giá trị văn hóa Chăm, đâu là của Hán trong lòng văn hóa Việt.

Tuy nhiên cũng cần nhận định rằng, quan hệ giữa hai nhà nước Đại Việt – Champa đã dẫn tới việc giao lưu văn hóa Việt – Chăm trong thời Lý – Trần được coi là mạnh mẽ nhất cả về số lượng và chất lượng. Có thể lý giải nguyên nhân văn hóa Việt tiếp nhận văn hóa Chăm một cách mạnh mẽ đến như vậy kể từ sau 938, và đặc biệt vào thời Lý, Trần. Sau khi chấm dứt 1.000 năm Bắc thuộc, việc tái lập một nhà nước, khẳng định một nền văn hóa Việt trên nền tảng văn hóa bản địa tiền Bắc thuộc và chống Bắc thuộc là hết sức cần thiết. Một thời gian quá dài bị người Hán đô hộ chính là nguyên nhân của một sự tái khởi đầu muộn mằn của người Việt. Chính vì vậy, văn hóa Việt một mặt phải tự khẳng định truyền thống khác biệt với văn hóa Hán, đồng thời phải tiếp nhận có chọn lọc những giá trị ưu trội của văn hóa Hán, đây là nghịch lý dân tộc đã tồn tại và xuyên suốt trong diễn trình của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, để xây dựng những giá trị văn hóa Việt phi Hán thì không chỉ đòi hỏi phải có một sự nỗ lực vượt bậc của cả dân tộc, mà còn cần phải mở rộng tiếp nhận những giá trị đặc sắc của các nền văn hóa khác như một đối trọng với văn hóa Hán. Hơn nữa, những nền văn hóa phi Hán như Ấn Độ, Champa lại có nhiều điểm đồng thuận, gần gũi với văn hóa Việt về tư tưởng, tâm lý và cách thức thể hiện. Đặc biệt, Champa, vốn là một quốc gia ra đời muộn hơn Văn Lang, Âu Lạc, nhưng lại nhanh chóng định hình, có điều kiện và thời gian để hoàn thiện sau đó. Nên vào thời gian mà Đại Việt đang khẳng định thì Champa đã phát triển rực rỡ nhờ tiếp thu giá trị đặc thù của văn hóa Ấn Độ. Chính vì vậy, trong văn hóa Chăm ảnh hưởng Ấn đã có linh hồn và nhiều giá trị phù hợp với tâm thức Việt. Xét về hình thức, có thể hai thể chế Việt (vỏ bọc Trung Hoa) với Chăm (vỏ bọc Ấn Độ) khác nhau tới mức khó có những điểm chung. Tuy nhiên, do nằm liền kề nhau về lãnh thổ, lại có những điều kiện tự nhiên và đặc thù văn hóa bản địa tương đồng, hơn nữa, Đại Việt đang cần những cứu cánh đối chọi với sự áp chế của phương Bắc nên đã nhanh chóng thâu nhận văn hóa Chăm – Ấn bằng nhiều con đường và cách thức khác nhau.

Sang đến cuối thời Trần, đặc biệt sau khi trải qua 20 năm Minh thuộc và sự xác lập của vương triều Lê sơ, hệ tư tưởng Nho giáo đã dần định hình phát triển mạnh mẽ, tỏ ra lấn lướt những giá trị văn hóa Chăm vốn đã ăn sâu vào đời sống Việt. Một trong những nguyên nhân cơ bản là sau nhiều thế kỷ định hình, xây dựng, đến thời điểm này, văn hóa Việt đã trở thành một cá thể độc lập, hội trong mình nhiều yếu tố ưu việt của các nền văn hóa lân cận. Sự kiêu hãnh dân tộc đã khiến người Việt bị mặc cảm trước đám thần dân nô lệ bị mang tiếng là man di kia. Chính vì thế mà triều đình ban bố rất nhiều lệnh cấm và bắt bớ giết chóc người Chăm trong thời gian cuối của vương triều Lê sơ. Bên cạnh đó còn xảy ra một thực tế là ý thức hệ của người Việt tiếp nhận từ Hán dựa trên Khổng giáo có nhiều điểm mâu thuẫn với giá trị tư tưởng Bàlamôn của cư dân Chăm. Chính điều này chúng ta có thể bắt gặp rất rõ nét trong các sự kiện ngoại giao giữa hai nước.

Sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, chính quyền Đàng Trong được xác lập, quan hệ Đại Việt – Champa bước sang một giai đoạn mới. Trong thời gian này, quá trình Nam tiến diễn ra mạnh mẽ và triệt để hơn bao giờ hết, số phận của vương quốc Champa đã được định đoạt. Sau năm 1693, mối quan hệ Đại Việt (đại diện là chúa Nguyễn ở Đàng Trong) – Champa không diễn ra với tư cách là hai nhà nước nữa, mà cư dân Chăm và văn hóa của họ đã trở thành một phức thể thống nhất với Đại Việt – Việt Nam cho đến tận ngày nay.

Xét trên bình diện chung, quan hệ giữa Đại Việt – Champa đã dẫn tới quá trình giao thoa giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm với hai phương thức cơ bản hòa bình và chiến tranh. Trong đó, phương thức hòa bình diễn ra có phần ít và hạn chế hơn so với phương thức chiến tranh, nhưng nó cũng để lại dấu ấn nhất định trên phương diện nhà nước có tính chất quan phương. Tính trong thời Bắc thuộc, các sự kiện ngoại giao không thấy ghi chép nhiều trong chính sử, chỉ duy nhất có một hai sự kiện người Chăm sang triều cống nhà Hán vào các năm 84, 436. Các sự kiện ngoại giao chỉ diễn ra chủ yếu sau khi người Việt giành lại quyền tự chủ cho đất nước mình. Vào thời Đinh – Tiền Lê chỉ xảy ra một lần người Chăm sang triều cống (994) và hai lần quy phụ (986, 992). Sang đến thời Lý số lần sứ thần qua lại lên đến 24 bao gồm cả 4 lần người Chăm sang quy phụ. Thời Trần, sự kiện ngoại giao qua lại giữa hai nước cũng diễn ra đến 22 lần bao gồm cả 4 lần người Chăm sang quy phụ. Thời Lê sơ, số lần ngoại giao giảm xuống đáng kể, có lẽ do trong một thời gian quá ngắn và lại xảy ra biến cố năm 1471 nên tần suất quan hệ ngoại giao thời kỳ này giảm xuống nhiều so với thời Lý, Trần. Theo thống kê thì chỉ có 12 lần qua lại dưới hình thức sứ thần của cả hai nước bao gồm cả 2 lần người Chăm vào quy phụ. Nếu nhìn vào con số thống kê thì chúng ta có thể nhanh chóng nhận thấy rằng, phương thức giao thoa văn hóa này sẽ để lại những dấu ấn văn hóa đậm nét lên đời sống của Đại Việt, đặc biệt là ở kinh đô Thăng Long. Nhưng có lẽ nhận định như vậy là chưa thấu đáo và chỉ nhìn trên những con số có tính chất bề nổi. Theo tôi, số lần các sự kiện ngoại giao cũng không ít hơn so với số sự kiện đụng độ giữa hai nước, nếu như không muốn nói nó có phần trội hơn. Nhưng những dấu ấn văn hóa theo phương thức hòa bình qua con đường ngoại giao và quy phụ để lại không sâu đậm. Hay có thể khẳng định nó chưa thâm nhập nhiều vào đời sống văn hóa Đại Việt và ngược lại. Trừ những sự kiện quy phụ có tính chất phục quốc, phục thù, đôi khi cả tìm chốn dung thân nữa, thì tất cả những sự kiện ngoại giao cho ta thấy rất ít nhân tố để có thể dẫn đến một quá trình giao thoa văn hóa mạnh mẽ. Có chăng chỉ trên phương diện bề nổi mang tính chất quan phương của triều đình, dường như không tác động nhiều đến đời sống của nhân dân. Số sứ thần ít ỏi như số hiện vật triều cống họ mang sang và thời gian lưu trú không dài, lại gần như chỉ tiếp xúc với tầng lớp trên là chủ yếu nên có thể chắc chắn rằng lối sống, phong tục của họ chưa có nhiều điều kiện và thời gian xâm nhập vào đời sống dân gian Việt. Hơn nữa, quy trình tiếp sứ thần có tính chất triều cống này lại chủ yếu diễn ra ở Thăng Long hoặc ngược lại là quốc đô của Champa nên nó không đủ sức lan tỏa ra toàn bộ lãnh thổ của Đại Việt.

Nếu tính cả những sự kiện quy phụ diễn ra rải rác trong các triều đại từ Đinh – Tiền Lê cho đến Lê sơ cho thấy số lượng người quy phụ cũng không nhiều, duy có một vài lần số người lên đến vài trăm hoặc nghìn như năm 992 (hơn 3000 người), 1044 (hơn 100 người) và 1448 (340 người). Có thể nhận thấy rằng với số lượng vừa phải, lại kéo dài trong nhiều thế kỷ, chắc chắn rằng nó cũng chỉ ảnh hưởng chút ít tới văn hóa của Đại Việt. Mặc dù vậy, nhân tố giao thoa nhiều hay ít, yếu hay mạnh, trong khoảng thời gian nào đó thì nó cũng để lại những dấu ấn văn hóa nhất định về mặt hình thức. Còn nội dung cụ thể như thế nào, sâu đậm đến đâu thì vẫn là một ẩn số. Tuy nhiên, cũng phải khẳng định lại rằng, thông qua con đường hòa bình – ngoại giao – quy phụ… với những dấu ấn mờ nhạt, về cơ bản văn hóa Chăm chưa thể làm thay đổi văn hóa Việt trên nhiều phương diện của cuộc sống.

Giao thoa qua phương thức chiến tranh giữa Đại Việt và Champa trong lịch sử diễn ra mạnh mẽ nhất, là nhân tố cơ bản cho quá trình tiếp biến văn hóa Việt – Chăm. Nếu như phương thức hòa bình qua con đường ngoại giao và quy phụ không mấy hiệu quả và không để lại nhiều dấu ấn có tính chất thay đổi giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm thì thông qua phương thức chiến tranh, quá trình giao thoa văn hóa Việt – Chăm lại diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc. Nó diễn ra trên quy mô lãnh thổ rộng lớn và kéo dài trong nhiều thế kỷ xây dựng, trưởng thành và tồn tại của cả hai dân tộc. Sau các cuộc chinh phạt, các triều đại trong lịch sử Việt Nam đã mang về Đại Việt những cá nhân xuất sắc nhất được coi là tinh hoa của Champa để phục vụ cho cuộc sống xa hoa trong cung đình rồi sau này lan tỏa ra cả đời sống dân gian.

Các con số thống kê cho thấy số cuộc đụng độ giữa Đại Việt và Chiêm Thành diễn ra qua các triều đại khá nhiều so với số sự kiện ngoại giao. Nếu tính cả các cuộc đụng độ dưới thời Bắc thuộc với chính quyền đô hộ thì đây là cả một quá trình chiến tranh lâu dài, giằng co giữa hai quốc gia. Nếu gộp thêm cả các sự kiện diễn ra dưới thời các chúa Nguyễn Nam tiến và chính thức xóa bỏ tên gọi Chiêm Thành (Champa) trên bản đồ thế giới vào năm 1693 thì mối giao thoa văn hóa Việt – Chăm qua con đường chiến tranh vượt trội phương thức ngoại giao cả về số lượng và chất lượng. Vào thời Bắc thuộc, có 15 sự kiện đụng độ quân sự, trong đó có 1 lần với người Việt dưới triều Lý Nam Đế (543) và 1 lần liên kết với Mai Hắc Đế (722) để chống chính quyền đô hộ nhà Đường. Sang thời Đinh – Tiền Lê các cuộc xung đột diễn ra mạnh mẽ và trực tiếp hơn, do lúc này Đại Việt mang tư cách là một nhà nước tự chủ xung đột với Champa. Chính vì thế đã xảy 5 lần va chạm trong một khoảng thời gian rất ngắn từ năm 979 đến 1005. Sang thời Lý – Trần, số lần đụng độ quân sự tăng lên gấp bội, 41 cuộc (15 cuộc dưới thời Lý, 21 cuộc dưới thời Trần) nhưng kéo dài đến gần 4 thế kỷ (từ 1009 – 1400). Sang thời Lê sơ, các cuộc đụng độ chỉ xuất hiện có 7 lần, kéo dài khoảng 1 thế kỷ (1427 – 1527). Tuy trong 7 lần đụng độ ít ỏi như vậy, nhưng sự kiện năm 1471 đã thay đổi cục diện trong quan hệ Đại Việt – Champa. Vương quốc Chiêm Thành bị teo lại với sức lực tàn tạ không còn gượng dậy để chống lại bất kỳ cuộc chinh phạt nào của Đại Việt. Đây cũng là tiền đề rất quan trọng cho các chúa Nguyễn ở Đàng cũng mở 7 cuộc tiến công và đánh quỵ hẳn Chiêm Thành vào năm 1693.

Trong nhiều thế kỷ chiến tranh như vậy không phải lúc nào Đại Việt cũng thắng trận, giành thế chủ động, mà ngược lại số lần quấy nhiễu và đánh ra Bắc của người Chiêm còn nhiều hơn số lần Đại Việt Nam tiến. Nguyên nhân Champa bắc tiến và quấy nhiễu Đại Việt thì có nhiều, nhưng có một lý do cơ bản nằm trong nội tại tính cách và văn hóa của dân tộc Chăm. Đó là “thuật hàng hải của người Chàm rất phát đạt, việc buôn bán bằng đường bể chắc được mở mang. Vì ở trên con đường thương mại quốc tế, Lâm Ấp chắc cũng phát triển nghề cướp bể… Đồng thời chiến tranh cũng là một nghề nghiệp của người Chàm…”(71). Tuy nhiên, Champa chỉ có 3 lần đánh ra Thăng Long dưới thời Chế Bồng Nga với quy mô lớn và được coi là đáng kể nhất. Còn lại chủ yếu là những hoạt động quấy nhiễu cướp bóc không làm cho Đại Việt có những biến động lớn, hay có tính chất thay đổi cục diện giữa hai quốc gia. Nhưng những lần chinh phạt của Đại Việt vào Champa lại rất đáng kể, nó làm thay đổi cục diện tương quan giữa hai nhà nước. Và thường Champa chịu những thất bại nặng nề về quân sự cũng như con người và kinh tế xã hội.

Sau những lần chinh phạt như vậy, hàng vạn tù binh bị bắt đem về Đại Việt. Trong đám người được coi là tù binh đó không chỉ đơn thuần là những chiến binh chỉ có kỹ năng chiến đấu và sức khỏe cơ bắp mà còn có rất nhiều trí thức, nghệ nhân, nghệ sĩ, quý tộc người Chăm. Họ có đôi tay tài hoa và khối óc chứa đầy tri thức của đất nước Champa, được đem ra Đại Việt an trí và làm nhiều công việc khác nhau. Để đề phòng biến loạn, các vương triều đã cho họ rải rác ở từ vùng Thanh – Nghệ ra đến tận vùng trung, thượng lưu sông Hồng và cả kinh sư Thăng Long nữa. Có lẽ những binh lính Champa đều xung quân hoặc cho ở những vùng đất mới xa kinh thành để đảm bảo an ninh cho quốc đô, vừa có thể tự khai phá đất đai nuôi sống bản thân và có thể bổ sung được nhiều nguồn lực cho triều đình sau này. Số còn lại là những trí thức, nghệ sĩ, nghệ nhân, vũ nữ,… có đôi tay, khối óc, tri thức và tài năng chắc chắn được lưu lại Thăng Long để phục vụ cho cung đình với thân phận nô lệ. Họ được coi là “những kẻ kém may mắn mang tinh hoa của dân tộc mình phục vụ cho những người chiến thắng như trường hợp người đốc công vô danh xây dựng tháp Báo Thiên cho Lý Thánh Tông, như tướng Bố Đông giữ thành Đa Bang cho Hồ Quý Ly”(72). Và, mọi chuyện giao thoa không chỉ dừng lại ở riêng Thăng Long. Với một số lượng người quá lớn nằm rải rác trên lãnh thổ Đại Việt, chắc chắn sẽ diễn ra quá trình tiếp biến văn hóa Việt – Chăm mạnh mẽ nhất và kéo dài trong nhiều thế kỷ. Đây là một hợp thể những dấu ấn phức tạp, đan xen lẫn nhau, tạo nên sắc màu cuộc sống trong lòng văn hóa Việt truyền thống.

——————————-

Chú thích:

1, 3, 4, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20. Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr.93, 94, 110, 111, 112, 113, 114, 127, 118, 130, 116, 168, 171, 173, 175, 177, 179.
2, 6. Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, Nhà sách Khai trí xb, Sài Gòn, 1967, tr.17, 20.
5. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr. 123.
6. Việt sử xứ Đàng Trong, sđd, tr. 20.
21, 22, 23, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr.193, 298, 215, 223, 224, 233, 233, 236, 237, 244.
24. Nguyễn Thị Phương Chi, Quan hệ giữa Đại Việt với Champa thời Trần (thế kỷ XIII – XIV), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 8-2007, tr.37- 44.
25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, sđd, tr.9, 96, 102, 102, 154, 207, 222, 223, 25, 109, 110, 179, 179, 188, 191.
46, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59, 60, 61, 62. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, sđd, tr.32, 40, 86, 87, 110, 156, 204, 148, 86, 135, 136, 136, 224, 228, 229, 229, 239.
63. Việt sử xứ Đàng Trong, sđd, tr.393.
64, 65, 66, 67, 68, 69, 70. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.36, 44, 59, 62, 62, 106, 106-107.
71. Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 1, sđd, tr.128.
72. Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006, tr.171.

Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

Tags: ,