Khái niệm đúng về nghệ thuật hậu hiện đại

Chủ nghĩa Hậu hiện (Postmodernism) đại đã ảnh hưởng bao trùm lên tư tưởng sáng tạo của rất nhiều nghệ sĩ đương đại.

Khái niệm đúng về nghệ thuật hậu hiện đại

Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 bùng nổ hàng loạt các trào lưu nghệ thuật được gọi chung là nghệ thuật hiện đại bao gồm: Ấn tượng, Dã thú, Lập thể, Da Da, Siêu thực, Biểu hiện, Tượng trưng, Trừu tượng, Lập thể nhịp điệu (Orphism), nghệ thuật Tối thiểu (Minimal art), nghệ thuật Phi đối tượng (Nonobjective art), nghệ thuật Giả động (Kinetic art), nghệ thuật Cụ thể (Concrete art), Conceptual art ( nghệ thuật Khái niệm), trường phái Tạo dựng (Conctructivism), hội họa hành động (action painting)… Riêng 2 trường phái DaDa và Khái niệm được các triết gia, các nhà phê bình nghệ thuật cho là khởi điểm của tư tưởng hậu đại. Điều đó chứng tỏ nhu cầu thay đổi cảm xúc, thay đổi thói quen thưởng ngoạn nghệ thuật, thay đổi tư duy, tâm lý cùng đồng hành hướng đến những cảm xúc mới, những nhận thức mới về cái đẹp. Cho dù tâm lý, thói quen, các định chế lâu đời của truyền thống cố tình lãng tránh hay kháng cự thị nó vẫn phát sinh ra đời và tồn tại…

Sự ra đời của hàng loạt các khái niệm mới : Anti,art (Phản nghệ thuật), Outsider art(nghệ thuật Bên ngoài), Neo- DaDa (Tân DaDa), Conceptual art(nghệ thuật Khái niệm), Psychedelic art nghệ thuật Ảo giác), Pop art (nghệ thuật Bình dân), Visionary art ( nghệ thuật Hư ảo), Fluxus art (nghệ thuật Dòng chảy), Interactive art (nghệ thuật Tương tác) -, Assemblage art (nghệ thuật kết hợp), Postminialism art (nghệ thuật Hậu tối giản), Land art (nghệ thuật Miền đất), Installation art (nghệ thuật Sắp đặt)- Lowbrow art (nghệ thuật Ít học), Graffiti art (nghệ thuật tranh trên tường đường phố), Digital art (nghệ thuật Kỹ thuật số), Telematic art (nghệ thuật viễn thông), Performance art (nghệ thuật Trình diễn), Video art (nghệ thuật Video), Neo, expressionism (nghệ thuật Tân biểu hiện), Appropriation art (nghệ thuật Chiếm hữu), Neo-Conceptual art (nghệ thuật Tân khái niệm), ASCII art (nghệ thuật thiết kế đồ họa có sử dụng máy tính), Pevement art (nghệ thuật vẽ trên vỉa hè), Plop art (nghệ thuật công cộng), Live art (nghệ thuật Sống), Internet art (Nghệ thuật internet)… được gọi là các trào lưu của nghệ thuật Hậu hiện đại (postmodermism art) và cũng được gọi chung là: nghệ thuật đương đại (bởi những trường phái trên thuộc về lĩnh vực mỹ thuật nên ta có thể gọi chính xác hơn là nghệ thuật thị giác đương đại) đã tạo nên những làn sóng mới trong thế giới nghệ thuật.

Chủ nghĩa Hậu hiện đại đã ảnh hưởng bao trùm lên tư tưởng sáng tạo của rất nhiều nghệ sĩ đương đại. Thuật ngữ “hậu hiện đại” lần đầu tiên được sử dụng vào khoảng năm 1870 bởi họa sĩ người Anh John Watkins Chapman trong một phát biểu: “phong cách hậu hiện đại của một bức tranh mới như một cách để vượt qua trường phái ấn tượng Pháp”. Triết gia người Anh J.M.Thompson, trong bài viết năm 1914 của ông trên tạp chí Hibbert (bình luận triết học hàng quý), sử dụng nó để mô tả những thay đổi trong thái độ và niềm tin trong các bài phê bình về tôn giáo: “Lý do tồn tại của hậu hiện đại là để thoát khỏi tâm hồn vô tư của chủ nghĩa hiện đại bằng cách lựa trọn kỹ lưỡng trong sự chỉ trích của mình cho sự mở rộng nó để tôn giáo cũng như thần học hay để cho cảm giác về Công giáo hiện đại cũng như Công giáo truyền thống”…

Theo nhà nghiên cứu người Nga sống ở Mỹ Mikhail Epstein thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” được coi xuất hiện lần đầu là ở cuốn sách Die Krisis der europaischen Kultur (1917) của nhà triết học Đức Rudolf Pannwitz để biểu thị chủ nghĩa hư vô trong văn hóa thế kỷ XX. Năm 1934 thuật ngữ này được nhà phê bình Tây Ban Nha Federico de Onis dùng trong sách Antología de la Poesía Espanola e Hispanoamericana để chỉ phản ứng thời đó đang tăng lên chống lại chủ nghĩa hiện đại đầu thế kỷ. Năm 1939 ra đời cuốn sách của nhà thần học Anh Bernard Iddings Bell “Religion for Living: A Book for Postmodernists” (Tôn giáo cho cuộc sống: một cuốn sách cho Hậu hiện đại) trong đó từ “chủ nghĩa hậu hiện đại” biểu thị phản ứng chống lại chủ nghĩa thế tục hiện đại và sự mở đầu một cao trào tôn giáo mới. Trong bộ sách nhiều tập Study of History của Arnold Toynbee, ở tập 5 ra năm 1939, từ “chủ nghĩa hậu hiện đại” là để chỉ thời kỳ xuất hiện xã hội đại chúng sau thế chiến I.

Có thể hiểu khái quát chủ nghĩa Hậu hiện đại: là một thuật ngữ mô tả phong trào hậu hiện đại trong nghệ thuật, đề ra những xu hướng văn hóa và các phong trào văn hóa nói chung của sau thời hiện đại. Nó thường xuyên phục vụ như là một thuật ngữ bao quát toàn bộ không rõ ràng cho cách giải thích: sự hoài nghi, sự mất lòng tin về các lý thuyết và các hệ tư tưởng có liên quan đến kiến trúc, văn học, nghệ thuật, phản ứng chống lại các nguyên tắc truyền thống và hiện đại; hoặc là một lý thuyết có liên quan đến việc đánh giá lại căn bản của các giả định hiện đại về bản sắc văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ… Tư tưởng hậu hiện đại thường nhấn mạnh đến xu hướng tạo dựng, chủ nghĩa lý tưởng, thuyết tương đối, đa nguyên, đa dạng và chủ nghĩa hoài nghi trong cách tiếp cận với tri thức và sự hiểu biết, có thể nói là một khái niệm khá “siêu hình”, bản thân các triết gia cũng không đưa ra một lý thuyết xác định nào và đôi khi còn có nhiều mâu thuẫn trong cách hiểu chính xác về thuật ngữ này. Các nghệ sĩ hậu hiện đại buộc tội nghệ thuật hiện đại đã đánh mất vị trí quan trọng của nó… khẳng định thuyết hậu hiện đại nâng cao bình đẳng, dân chủ, hệ sinh thái và tính đa nguyên đa dạng, chủ nghĩa Hậu hiện đại rất hoài nghi về tất cả các tiến trình giác ngộ hiện đại và thuyết tiến bộ.

Chủ nghĩa Hậu hiện đại xem thế giới là hậu hiện đại, là xây dựng xã hội, khoa học hợp lý, trong đó sự thật được tìm thấy thông qua các phương pháp, điều tra xử lý xem xét các xã hội truyền thống, trong các di sản của chủ nghĩa Tân lãng mạn và của các nền văn minh Mỹ và phương Tây. Sự thật cũng được tìm thấy thông qua việc đạt được sự hài hòa với thiên nhiên và hoặc thăm dò tinh thần của bản thân bên trong con người. Ý tưởng hậu hiện đại trong triết học và phân tích của nền văn hóa xã hội mở rộng tầm quan trọng của những lý thuyết đã được xác định khởi hành cho các lĩnh vực văn học, kiến trúc và thiết kế đương đại cũng như có thể nhìn thấy trong tiếp thị, kinh doanh. Việc giải thích lịch sử, pháp luật và văn hóa, bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 20, đánh giá lại toàn bộ những phát triển và hệ thống giá trị phương Tây (tình yêu, hôn nhân, văn hóa, sự chuyển đổi từ công nghiệp sang nền kinh tế dịch vụ) đã diễn ra từ những năm 1950 và 1960 (đặc biệt bùng nổ mạnh trong cuộc Cánh mạng xã hội ở phương Tây vào năm 1968).

Những triết gia danh tiếng của chủ nghĩa Hậu hiện đại hầu hết là người Pháp: Jean Fracois Lyotard (1924 – 1998), Jacques Derida (1930, 1994), Jean Baudrillard (1929 – 2007), Michel Foucault (1926 – 1984). Ngoài ra, Phân tâm học Freud và chủ nghĩa Hiện sinh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến các nghệ sĩ đương đại. Khởi điểm sơ khai xúc tác ảnh hưởng đến tinh thần đương đại, xuất phát từ các nghệ sĩ Avant, gader (những người tiên phong) điển hình là nghệ sĩ người Pháp Marchel Duchamp.

Nhà thơ, nhà phê bình nghệ thuật người Pháp Charles Baudelaire đã từng tuyên bố tiên tri: “Trí tuệ con người có bổn phận luôn phải khởi động lại”, “Cái đẹp luôn khác thường”.

Bản thân sự ra đời của các triết lý mới của triết học cũng ảnh hưởng không nhỏ đến các quan điểm thẩm mỹ. Chủ nghĩa hiện sinh và Phân tâm học của Sigmund Freud cũng tác động tới cảm xúc tâm hồn tư duy của các nghệ sĩ đương đại. Triết thuyết của chủ nghĩa hiện sinh luôn xác tín của ý nghĩa nhân sinh. Mỗi con người phải giữ vững tự do, tính độc đáo của cá nhân mình và để có tự do thực sự, con người phải luôn hướng tới cái siêu việt, không có siêu việt thì không có hiện sinh trung thực.

Sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật, các quan niệm triết học, mỹ học, phân tâm học, tâm lý học, những hình ảnh từ truyền hình, quảng cáo, điện ảnh, Internet, kỹ thuật số, dồn dập ra đời. Buộc người làm nghệ thuật, tìm các giải thoát khỏi những ràng buộc, những chuẩn mực, những quan niệm của các hệ thống trước đây hay thường gọi là truyền thống thống trị.

Hầu hết các nhà phê bình nghệ thuật trên thế giới đều cho rằng: nghệ thuật hậu hiện đại xuất phát kế thừa từ nghệ thuật hiện đại. Thời gian cho sự chuyển đổi từ hiện đại đến hậu hiện đại là vào năm 1914 ở châu Âu. Còn nghệ thuật đương đại phát triển từ nghệ thuật hậu hiện đại.

Trong ngôn ngữ tiếng Anh bản địa từ “hiện đại” và “đương đại” có thể gọi gần như là đồng nghĩa. Thuật ngữ chủ đạo cho những tác phẩm nghệ thuật từ những năm 1950 cho đến hiện nay được gọi là “nghệ thuật đương đại”. Nhưng không có nghĩa rằng tất cả những tác phẩm nghệ thuật của thời hiện nay đều là nghệ thuật đương đại bởi có nhiều nghệ sĩ vẫn làm việc sáng tác thuần túy theo tinh thần cổ điển và chủ nghĩa hiện đại (họ vẽ tranh hay làm điêu khắc thuần túy theo những lý thuyết, quan niệm, của các tổ phụ cổ điển và hiện đại tạo dựng nên như về quy luật bố cục, sự cân bằng thị giác, quy luật sáng tối đậm nhạt, nội dung chủ đề thuần nhất, đồng nhất về chất liệu, đồng nhất bút pháp, đồng nhất phong cách, đồng nhất trương phái, những quan niệm về đẹp và xấu, về sự trương tồn dài lâu của tác phẩm…). Cũng có nhiều nghệ sĩ chống lại xu hướng hậu hiện đại họ đưa ra khái niệm Siêu hiện đại (metamodernism) hay gọi là chủ nghĩa sau hậu hiện đại, và không phải tất cả những nghệ thuật dán nhãn đương đại là nghệ thuật hậu hiện đại (bởi tác phẩm của các nghệ sĩ hậu hiện đại thường là Conceptual art (nghệ thuật Khái niệm), Psychedelic art (nghệ thuật Ảo giác), Pop art (nghệ thuật Bình dân), Visionary art (nghệ thuật Hư ảo), Fluxus art (nghệ thuật Dòng chảy), Interactive art (nghệ thuật Tương tác) -, Assemblage art (nghệ thuật kết hợp), Postminialism art (nghệ thuật Hậu tối giản), Land art (nghệ thuật Miền đất), Installation art (nghệ thuật Sắp đặt ), Digital art (nghệ thuật Kỹ thuật số), Telematic art (nghệ thuật viễn thông), Performance art (nghệ thuật Trình diễn), video art (nghệ thuật Video)… đó là những trường phái nghệ thuật không sử dụng đến bút chấm vào màu để vẽ lên mặt phẳng 2 chiều của một tấm vải hay trên một tấm gỗ như các họa sĩ cổ điển hay hiện đại thường dùng để tạo nên một bức tranh nghệ thuật thuần túy, mà chủ yếu dựa trên công nghệ khoa học, kỹ thuật điện tử, vi tính, kỹ thuật số… trong không gian tự do ở bất kỳ đâu: trong nhà, sân khấu, ngoài trời… Việc phân loại “nghệ thuật đương đại” như một loại đặc biệt của nghệ thuật, chứ không phải là một cụm từ thuộc tính từ chung để gọi tên cho thời gian của thời hiện tại. Nhưng bởi nó được hình thành phát triển từ chủ nghĩa hậu hiện đại, và trở thành trào lưu lớn phổ quát rộng khắp toàn cầu vào nửa cuồi thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 nên khái niệm đương đại được ám chỉ áp dụng cho tất cả những nghệ sĩ có tác phẩm từ nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc, văn học, thơ ca, tiểu thuyết, âm nhạc, múa, sân khấu điện ảnh… sáng tạo theo tinh thần tư tưởng của chủ nghĩa Hậu hiện đại. Ngoài ra, trong từ điển Dictionary .com có một số định nghĩa khác: “nghệ thuật đương đại như công việc của các nghệ sĩ đang sống trong thế kỷ hai mươi mốt.”, “nghệ thuật đương đại là của 20 phần trăm vào cuối thế kỷ 20 và năm phần trăm vào đầu thế kỷ 21 là một kết quả tự nhiên và một sự từ chối nghệ thuật hiện đại”.

Hiểu theo một nghĩa tối thiểu nghệ thuật thị giác đương đại (mỹ thuật đương đại) là bao gồm cả nghệ thuật đương đại và nghệ thuật hậu hiện đại, những họa sĩ hay nhà điêu khắc làm việc vẫn sử dụng các phương tiện vật liệu của truyền thống như cây bút vẽ, màu vẽ, khung vải, gỗ, đá, kim loại… nhưng hoàn toàn không tuân theo bất kỳ một quy luật tiền lệ nào, trên mặt phẳng tranh, trên một bức tượng hay trong các tác phẩm nghệ thuật của họ là những tương phản đột biến từ chối các tiêu chuẩn nghệ thuật thông thường của nghệ thuật cổ điển và hiện đại. Họ đã cố gắng để mang lại cho nghệ thuật gần gũi với cuộc sống hàng ngày, (riêng trường phái Phản nghệ thuật (Anti art) có xu hướng ít chú trọng về bản sắc cá nhân và sáng tạo cá nhân, mà kết hợp hợp tác trong quá trình sáng tạo với các đồng nghiệp của họ) bằng cách kết hợp các đối tượng từ cuộc sống hàng ngày vào công việc trưng bày và thực hiện tác phẩm của họ ở cả bên ngoài trên đường phố cho mọi người xem. Chống thương mại hóa trong tâm trí của nghệ sĩ là nghệ thuật có thể là xấu, có thể là tốt hoặc không quan tâm xấu tốt , nhưng bất cứ điều gì như một tính từ được sử dụng đều có thể được gọi đó là nghệ thuật. Nghệ thuật xấu vẫn là nghệ thuật trong cùng một cách như một cảm xúc xấu vẫn là một cảm xúc nhưng không phán xét, không giải thích, không suy diễn, có sự soi rọi nội tâm, tính đồng diễn, phản xạ tự nhiên trong quá trình sáng tạo, mô phỏng, hài hước, châm biếm, diễn giải, nhại lại, sử dụng những tác phẩm sẵn co, thay đổi phiên bản, ẩn du, ám chỉ, bắt chước, lắp ráp, gép nối, cắt dán, đơn giản hóa, chiếm đoạt, tái chế, bổ sung làm lại, vay mượn tăng thêm hư cấu, ngẫu hứng tự nhiên, kết dính nhiều mảng kết cấu khác nhau trong cùng một tác phẩm, phân đoạn, không liên tục, đan xen hòa trộn những điều kỳ dị, ngớ ngẩn, tự do bất quy tắc, tuỳ tiện, điên rồ, phi lý, phi thực tế, vô chính phủ, pha trộn đời sống thực và không thực, vụng về, ngây thơ, có thể tạo nên sự hỗn loạn, kết hợp pha trộn ngẫu nhiên nhiều chất liệu, vật liệu và sử dụng ngay cả những đồ vật có sẵn trong thiên nhiên hoặc do chính con người chế tác nên, đa không gian, đa thời gian, đa sắc thái, đa phong cách, đa trường phái, đa thời đại, đa bản sắc, đa văn hóa, có thể có nhiều hình thái nghệ thuật khác nhau cùng hiện diện trong một tác phẩm, tự do thay đổi lịch sử theo thời gian, không phân biệt vô thức hay hữu thức bản ngã của tác gia, tạo cảm giác gây sốc, gây cảm hứng lật đổ ngông cuồng trong thế giới nghệ thuật, để mỗi sáng tác mang một ý nghĩa mỹ học tự thân và cố gắng vượt qua biên giới mỹ học hiện đại để đạt tới trạng thái siêu tự do (những khái niệm lý tưởng, bất tử, đẹp xấu… không còn là điều hệ trọng), thu hẹp khoảng cách, phá vỡ những rào cản giữa nghệ thuật và các hoạt động khác của con người, chẳng hạn như giải trí thương mại, công nghệ công nghiệp, thời trang, thiết kế… cũng đều được gọi là nghệ sĩ đương đại. Những hoạt động được tạo ra từ sự cô đơn và từ xung lực sáng tạo tinh khiết bản năng không có sự can thiệp của trường lớp đào tạo nghệ thuật, ví dụ như những bức tranh của những người bị bệnh tâm thần, điên mất trí, loạn thần kinh… vì đó là những sự kiện tạo nên những bất ngờ, kỳ dị, độc đáo rất quý giá đôi khi có thể hơn cả những sản phẩm của các nghệ sĩ chuyên nghiệp, nó ca ngợi và khuyến khích xã hội không có sự can thiệp vào tâm trí sáng tạo của người nghệ sĩ (khái niệm nghệ thuật đương đại đôi khi có thể mâu thuẫn với chính khái niệm nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại bởi cùng một phong cách hay trường phái nghệ thuật nhưng để gọi tên chính xác cho nó thuộc khái niệm nào vẫn được các nhà phê bình nghệ thuật tranh luận quyết liệt. Một số nhà phê bình nghệ thuật như Julian Spalding (người Anh) và Donald Kuspit (người Mỹ) cho rằng thái độ hoài nghi, thậm chí từ chối, là một phản ứng hợp pháp và hợp lý để nghệ thuật đương đại hơn, cũng có hay có thể hiểu là tự do vượt qua tất cả những quy tắc đã từng tồn tại để sáng tạo.

Triết gia, nhà phê bình nghệ thuật người Mỹ, Arthur Danto lập luận rằng khái niệm “đương đại” là một thuật ngữ rộng lớn hơn, và các đối tượng hậu hiện đại chỉ đại diện cho một “tiểu khu” của phong trào hiện đại. Một đối thủ cực đoan của chủ nghĩa hiện đại, nhà phê bình nghệ thuật danh tiếng người Mỹ Hilton Kramer mô tả hậu hiện đại như “một sáng tạo của chủ nghĩa hiện đại ở phần cuối của chiếc dây buộc mình”. Jean-François Lyotard cho rằng chủ nghĩa Hậu hiện đại đã khai sinh ra một thời đại đã mới. Ông được cho là một nhà triết học lớn của chủ nghĩa Hậu hiện đại.

Còn nhà triết học Marxist người Mỹ, Fredric Jameson lập luận rằng các điều kiện của cuộc sống hiện đại và công nghệ sản xuất hiện đại sẽ được phản ánh trong tất cả các hoạt động, bao gồm cả việc tạo ra nghệ thuật .

Có thể nói rằng nghệ thuật đương đại là đỉnh cao của một quá trình giao cảm thẩm mỹ, lạc quan, tất yếu, là sự thức tỉnh logic trong sự tiến triển sáng tạo các hình ảnh của nghệ thuật thị giác. Nó tìm kiếm một độ tinh khiết vô thức của tinh thần sáng tạo trong không gian tự do và hình thức của nội tâm tự nhiên tìm thấy sự tham gia với các cấu trúc theo nội dung thẩm mỹ một cách trực giác giống như cách tiếp cận chiêm niệm trong giấc mơ, nó có thể tạo nên những ảo giác kỳ diệu cho cảm xúc mỹ học. Những người tiếp cận không gian hình ảnh truyền thống và hiện đại (chúng ta nói đến nghệ thuật từ đầu thế kỷ 20 trở về trước) suy tư thị giác theo một cam kết ý thức cổ điển và hiện đại đã chứng kiến một sự đổi thay lớn: ngôn ngữ của nghệ thuật truyền thống đã dần trở nên cạn kiệt, bất lực trong sự biểu hiện những biến đổi mãnh liệt của đời sống đương đại. Những nghệ sĩ đương đại tích cực tham gia vào cuộc đối thoại với những hình thể phiêu lưu trừu tượng, siêu hình, kỳ dị bất trị nhất hiển thị một cảm xúc trực giác độc đáo, gây cấn, sự bất khả kháng hội nhập tuyệt vời của đường nét, màu sắc, hình thể, âm thanh, ánh sáng, nhịp điệu, tràn ngập tưởng tượng luôn bất ngờ, ngẫu nhiên, chất trí tuệ siêu việt và sức sống mãnh liệt trong mọi không gian bất kỳ. Sự bùng nổ tư tưởng tự do, dân chủ trong sáng tạo nghệ thuật ngày càng trở nên cấp thiết, hoành tráng, sâu rộng hơn, biên độ cảm xúc được giải phóng có thể phá bỏ ranh giới giữa các hình thái, thể loại nghệ thuật, sự pha trộn điêu khắc với hội họa, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, ánh sáng, ngôn ngữ, thi ca, văn học, kiến trúc, pha trộn hiện thực, phi hiện thực, phi lý, phi hình thức, hư cấu phi hư cấu… Trí tưởng tượng ngẫu hứng được tự do trình diễn không bị lệ thuộc vào bất kỳ một quan niệm, một định chế nào, không bị quy ước bởi tính vị lợi hay thương mại hóa ràng buộc đã trở nên tự nhiên không có giới hạn, nhưng cũng đầy cam go thách thức của cuộc sống đương đại đang trở nên khủng hoảng, bế tắc. Người nghệ sĩ như vị thế của một triết gia trở thành những chuyên gia thẩm mỹ dẫn dắt hướng đạo cảm thụ nghệ thuật. Chính bởi vậy mà các xu hướng phát triển nghệ thuật từ cổ điển đến hậu hiện đại được đưa ra trình diễn phần lớn ở các cường quốc nghệ thuật. Rất nhiều các nghệ sĩ châu Á được đào tạo ở châu Âu phương tây và ở Mỹ đã đóng một vai trò không nhỏ trong việc truyền bá triết lý của nghệ thuật đương đại. Họ nhấn mạnh rằng ngôn ngữ hình ảnh, hình thể của các chất liệu, các phương tiện khoa học công nghệ, kết cấu, cấu thành nên đời sống văn minh nhân loại như là một tài nguyên phong phú vô tận cho tạo hình nghệ thuật.

Các nghệ sĩ đương đại đã thể nghiệm bất quy tắc với tất cả mọi chất liệu, các phương tiện, các vật dụng có sẵn trong cuộc sống, kết hợp nhiều hình thái, thể loại nghệ thuật khác nhau. Công nghệ truyền thông và kỹ thuật khoa học hiện đại được sử dụng như là những chất liệu của truyền thống đã từng làm nên những làn sóng cách tân nghệ thuật. Họ xem xét lại quy mô của không gian ba chiều cụ thể để liên kết, tương tác, đàm phán với các tác nhân gây kích thích thẩm mỹ thị giác phổ quát, tạo nên những xung lực dị biệt cho cảm xúc và nhận thức nghệ thuật trở nên huy hoàng, tráng lệ, và mang cả tính hài ước bi tráng của thời đại, từ đó nghệ thuật thị giác hình thành nên hàng loạt những khái niệm mới. Có lẽ đó là sự lãng mạn bay bổng cao nhất của tinh thần con người trong một thực tại đời sống đương đại đang biến đổi rất nhanh và vô cùng bất thường. Các chủ đề liên quan đến thân phận, giới tính, môi trường, đô thị hóa, tự do tình dục, tự do yêu đương, tự do tư tưởng và những cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, chiến tranh được nổi lên trong hình ảnh của tác phẩm. Sự sống động của đời sống văn hóa đại chúng tương tác như là một kích hoạt lớn trong việc đưa ra những yếu tố bất ngờ, phong phú, phi thường, phi trường phái, phi chủ nghĩa, tiết lộ những cảm xúc thầm kín, trừu tượng, siêu thực, bí ẩn, mãnh liệt trong sự tranh chấp nội tâm của một quá trình tu luyện khổ hạnh trong nhận thức biểu cảm cái đẹp cùng sự dấn thân tham gia vào các hoạt động xã hội đấu tranh cho công lý, tự do và dân chủ. Quá trình hiện đại hóa tinh thần văn hóa nhân loại để hình thành phát triển nghệ thuật thị giác, giàu trí tưởng tượng, giàu sức sống, luôn săn sàng “nổi loạn” phá bỏ những hàng rào thành kiến bảo thủ kim hãm, biểu thị một trạng thái phi lý tuyệt vời, hấp dẫn, quyến rũ, ly kỳ không thể giải thích được, là một nhu cầu tất yếu không thể dừng bước, bản thân nó trở thành cây cầu kết nối nhịp điệu tâm trạng cá nhân với thế giới, điều này đã kiến tạo, xúc tác sự thăng hoa trí tưởng tượng cho tiến trình phát triển tư duy, trí tuệ chung của nhân loại. Nhà thơ người Pháp Arthur Rimbaud (1854 – 1891), như một nhà tiên tri, ông đã nói rằng: “Cần phải đi đến cái mới lạ chưa từng được biết bằng sự hỗn loạn của tất cả các giác quan”.

Trong sáng tạo nghệ thuật “ý tưởng là quan trọng nhất”. Bởi vậy, trong các xu hướng nghệ thuật đương đại, mọi thủ pháp kỹ thuật mới, kỹ xảo mới, mọi vật liệu, chất liệu khác đều được sử dụng vào tác phẩm một cách triệt để nhất. Cấu trúc bề mặt của một tác phẩm hội họa hay điêu khắc được tạo nên không theo tinh thần truyền thống hay hiện đại mà được tạo một cách ngẫu nhiên, bất ngờ, rối loạn, vô nguyên tắc, vô trật tự như còn dang dở. Những gì có trong thiên nhiên: Đất, đá, sỏi, cát, nước, lửa, khói, cỏ cây hoa lá, rêu phong ẩm mốc, thú vật, xác chết động vật chưa thiu thối và xác chết động vật đã thui thối bốc mùi, rác rưởi đồ phế thải rồi đến các phát minh của khoa học kỹ thuật được ứng dụng, các máy móc, công cụ, phương tiện đi lại, các công trình kiến trúc, đồ dùng hàng ngày, vải vóc, quần áo, nhựa polime… Những âm thanh tiếng động thu được trong thiên nhiên, những âm thanh nhân tạo, âm nhạc, ánh sáng, màu sắc. Đặc biệt là thân thể con người được sử dụng một cách trực tiếp như một vật liệu, một phương tiện, công cụ không thể thiếu vắng. Những hình ảnh loã thể của người phụ nữ, đàn ông được phô bày, trình diễn tự do, trần trụi ở mọi tư thế dáng điệu, trạng thái mà không hề có bất kỳ một sự kiêng kị nào.

Có thể nói là tất tần tật, bất kể là cái gì, từ những cái nhỏ bé, vớ vẩn tầm thường, vô giá trị nhất cho đến những cái cao quý, giá trị đều có thể làm nên tác phẩm nghệ thuật. Trong mọi không gian thời gian, đều được dùng làm vật liệu cho tác phẩm, miễn là nó nằm trong ý đồ của tác giả, đều được các nghệ sĩ đương đại sử dụng nhằm gây ấn tượng sốc, khác lạ đến người xem. Điều quan trong hơn đó chính là nhằm thoả mãn nhu cầu cảm xúc riêng tư thầm kín, những sự lo âu, ám ảnh, hoang mang, cô đơn, những tâm trạng bi đát, đói khát tự do, đói khát tình yêu, đói khát tình dục, sự bất an bất toàn, những mẫn cảm đặc biệt về vẻ đẹp bất ngờ của các đồ vật, phương tiện do con người tạo ra. Đâu là ý nghĩa thực sự của cuộc sống luôn là câu hỏi thường trực của những người nghệ sĩ đương đại. Cuộc sống của một cá nhân con người là quá ngắn ngủi. Sự hiểu biết của khoa học kỹ thuật là giới hạn, thế giới vũ trụ quá vĩ mô. Mọi giá trị của cuộc sống đều bị đảo lộn và quá phi lý. Các khái niệm đạo đức, công lý, chân lý, lý tưởng, vĩnh cửu, tự do, dân chủ, bác ái, tình yêu, hạnh phúc đều được sử dụng một cách giả tạo và bị điều kiện hoá.

Sự đối đầu, thách thức với truyền thống luôn thường trực trong tư duy, tâm hồn của những nghệ sĩ đương đại. Mục đích tối cao của họ là đem đến cho người xem nhận biết về thái độ sống như một thông điệp để xác tín những phản tỉnh trong xã hội hiện đại một cách sâu sắc hơn. Kích thích cho chúng ta có những cảm xúc mới lạ, bất ngờ. Đánh thức tiềm năng sáng tạo mới. Nó giải phóng thói quen về nhận thức cái đẹp của một tác phẩm nghệ thuật. Giữa tác phẩm nghệ thuật và người thưởng ngoạn có sự thông giao tương tác. Nó giải phóng cái không gian chật hẹp của các hệ thống nghệ thuật truyền thống. Biên độ của tư duy, của cảm xúc được tự do hơn, dần dần tạo nên các thói quen mới, các chuẩn mực mới, làm phong phú thêm cho nhận thức về cảm nhận nghệ thuật.

Bản chất của sáng tạo là sự tìm kiếm một quy luật mới, một trật tự mới, một tư tưởng mới, hay có thể nói quá trình sáng tạo sẽ đẻ ra luật lệ cho chính nó. Bởi vậy những kẻ sáng tạo giống như những chiến binh huyền thoại, không sợ gian khổ, hiểm nguy và thất bại, họ lao vào cuộc hành trình phiêu lưu, mạo hiểm, nỗ lực nhằm thoát khỏi sự thống trị của các nguyên tắc, luật lệ, thói quen, tâm lý, cách nhìn cũ, chống lại sự trơ lì, trống rỗng của cảm xúc và nội tâm, đó là cơn “phê” bất tử của đam mê sáng tạo. Nhiều nghệ sĩ đã sử dụng những yếu tố truyền thống cộng hưởng với tư duy cảm xúc, tâm sinh lý hiện đại đưa ra những hướng mới cho nghệ thuật thị giác, một số khác thì rời bỏ hẳn truyền thống, và coi nó là câu chuyện của quá khứ đã lùi sâu vào dĩ vãng. Một cảm xúc hư ảo trào dâng hài hòa với lý trí không định kiến có khả năng dự báo có thể quyết đoán với nghệ thuật đương đại bắt đầu vạch ra những quan niệm mới. Những bài giảng thống trị của nền nghệ thuật trong quá khứ trước đó trở nên kém thi vị và nhạt dần, kinh nghiệm trí tuệ của mỗi cá nhân có thể mắc sai lầm và chỉ là tương đối không mặc định phổ quát. Những “lãnh chúa” của nghệ thuật truyền thống và ngay cả hiện đại như những nghệ sĩ lừng danh, Picasso, Jean Arp, Magritte, Chagall, De Kooning, Henry Moore, Giacometti, Joan Miro, Salvador Dali, Balthus… không còn là những chiếc ô dù đủ sức bảo lãnh cho những tư tưởng của nghệ thuật hiện đại, cho dù họ đã trở nên bất tử. Thế hệ những nghệ sĩ trẻ đương đại không bị những chiếc bóng khổng lồ của những thiên tài đi trước bao phủ, áp đặt, không bị ràng buộc bởi bất kỳ một chuẩn mực nào, một định chế nào.

Thượng Đế đã trao cho người nghệ sĩ một quyền năng bí ẩn để nhào nặn nên các chất liệu, các hình ảnh sống động trở thành biểu tượng huyền ảo hy vọng có thể băng qua quá khứ, tư duy lại tương lai. Năng lực sáng tạo của các nghệ sĩ đương đại tham gia tìm kiếm với các mối quan tâm mới đa chiều theo một cơ chế hoàn toàn khác. Họ khao khát khám phá những khái niệm có được tính ưu việt gây ấn tượng mạnh hơn về cảm xúc thị giác, mở rộng không gian tư tưởng, kích thích sự sáng tạo hình thức biểu đạt phong phú bất tận, các chủ đề cuộc sống đặt ra rộng lớn hơn, thân phận con người được quan tâm nhiều hơn, sâu sắc hơn, họ có thể đưa trí tưởng tượng không tưởng trở về với hiện thực, do đó ý tưởng của người nghệ sĩ cũng dần trở thành thực tiễn phổ biến, mang ý nghĩa thúc đẩy trí tưởng tượng sáng tạo không chỉ cho nghệ thuật mà còn ảnh hưởng rất mạnh đến nhiều lĩnh vực khác, kể cả khoa học kỹ thuật.

Ý thức sâu sắc về xã hội, sự hiểu biết các trào lưu tư tưởng nghệ thuật, mỹ học triết học là điều hệ trọng. Sự cảnh báo về nguy cơ chiến tranh hạt nhân, về hiểm họa môi trường bị tàn phá do chính con người gây nên, sự đối đầu xung đột giữa các tôn giáo, các thể chế chính trị, những sự kiện bất thường xảy ra trong cuộc sống, sự mẫn cảm trước vẻ đẹp của những vật liệu, những đồ vật có sẵn, các đồ dùng, các phương tiện máy móc của đời sống hàng ngày, cả đều được các nghệ sĩ đương đại quan tâm sử dụng, phối hợp một cách có chủ ý hoặc là ngẫu nhiên một cách ẩn dụ như là đề tài, chất liệu tạo cho tác phẩm để tạo nên mỹ cảm hay đánh động tư duy, tâm hồn trước các biến cố bi hài của cuộc sống… Bởi vậy các tác phẩm được tạo ra luôn có vẻ kỳ lạ, quái dị đến mức người xem tưởng nó là “chứng rối loạn thần kinh chức năng, rối loạn tinh thần, rối loạn cảm xúc” nhưng thực tế nó hoàn toàn được lý trí kiểm soát. Dưới sự sắp đặt điều khiển của người nghệ sĩ chúng trở nên có vẻ đẹp hay ý nghĩa ẩn dụ bất ngờ đầy ý nghĩa nhân văn và giá trị thẩm mỹ, điều này đã dem lại sự thành công cho các nghệ sĩ đương đại.

Trong tất cả các trào lưu của nghệ thuật đương đại: riêng “nghệ thuật Ít học” (Lowbow art) có xuất xứ từ những bức tranh vẽ trên tường ở đường phố thường có tính châm biếm, hài hước hay có cả những sự tục tĩu đời thường, một trường phái đã làm nổi bật chủ đề trung tâm trong chủ nghĩa hậu hiện đại trong đó sự phân biệt giữa “cao” và “thấp” của nghệ thuật không còn được công nhận.

Gần đây, khái niệm chủ nghĩa Siêu hiện đại (Metamodernism) để phản ứng lại với chủ nghĩa Hậu hiện đại và “cái chết của Hậu hiện đại” đã và đang được tranh luận ngày càng rộng rãi… ở châu Âu và Mỹ. Chắc chắn rằng trong tương lai các nghệ sĩ và các nhà phê bình nghệ thuật lại tiếp tục phát minh ra những khái niệm mới để gọi tên cho nghệ thuật của thời đại đó, không có bất cứ một khái niệm nghệ thuật nào có thể độc tôn được sử dụng mãi mãi, một khái niệm mới được sinh ra, với thời gian nó lại lu mờ dần bởi sự ra đời của những khái niệm mới và cứ thế cho đến ngày “tận thế”.

Hiện nay đang có xu hướng lạm dụng và ngộ nhận thuật ngữ đương đại để chỉ một số tác phẩm vẽ theo những phong cách, trường phái nghệ thuật hiện đại như trừu tượng, biểu hiện, hiện thực, siêu thực… do những luồng tư tưởng đó vào Việt Nam rất chậm, nên mãi đến gần những năm thập niên cuối của thế kỷ 20 mới được du nhập ảnh hưởng vào Việt Nam. Bởi vậy các nghệ sĩ Việt Nam sáng tác theo những xu hướng đó cho đến thời hiện tại, đã được coi như là nghệ thuật đương đại cho dù những phong cách trường phái đó đó đã thuộc về thời quá khứ ở nửa đầu của thế kỷ 20. Các nhận thức đó cho rằng sự phản ánh các phương diện của đời sống hiện tại có tính lịch đại vào nghệ thuật được coi là đương đại chứ không nhất thiết là cấu trúc, phương thức, phương tiện của nghệ thuật Hậu hiện đại và sự lạ hóa của tác phẩm nghệ thuật mới là nghệ thuật đương đại. Sự ngộ nhận này đã làm rối loạn cách hiểu đúng về khái niệm nghệ thuật đương đại.

Cho dù là cách tân, là siêu hiện đại, mọi cái đều dẫn đến giới hạn của nó. Mãi mãi và muôn thuở chúng ta không thể triệt tiêu tài nghệ tinh luyện của đôi bàn tay, hoà hợp với khả năng, sự mẫn cảm đặc biệt của óc thẩm mỹ và một trí tuệ siêu đẳng. Chúng ta không thể không trau dồi, rèn luyện kỹ năng sử dụng kỹ thuật tinh xảo, trau dồi tri thức, văn hoá xã hội nhằm nâng cao sự uyên thâm, thông tuệ, sâu sắc trong ý tưởng nghệ thuật. Đó cũng chính là tiêu chí tối thiểu của các nghệ sĩ ở mọi thời đại để có thể tạo tác nên những kiệt tác công phu, hoàn hảo, và hoàn mỹ nhất.

Cho dù hội họa, điêu khắc hay nghệ thuật thị giác có phát triển tiến hóa đến đâu, con người cũng không thể từ bỏ vẻ đẹp của những đường nét, màu sắc, hình khối, ánh sáng, vẻ đẹp của thiên nhiên và của hình thể con người mãi mãi là những vương quốc, là biểu tượng diễm ảo thần tiên cho con người si mê tạo tác nên những kiệt tác nghệ thuật.

Cho dù âm nhạc có phát triển, tiến hoá đến đâu, con người có thể tạo ra bao nhiêu thứ âm thanh nhân tạo, thu được bao nhiêu những âm thanh kỳ lạ trong thiên nhiên, nhưng cũng không thể triệt tiêu những âm sắc của cây đàn ghita, violon hay piano… Không có bất kỳ giọng ca nhân tạo nào có thể thay thế cho giọng ca của chính con người. Những âm giai của 7 nốt nhạc Do, Re, Mi, Fa, Sol, La -Si mãi mãi là nền tảng cho âm nhạc.

Cho dù văn học có phát triển, tiến hoá đến đâu nó cũng không thể không dùng ngôn ngữ, chữ viết, nghệ thuật tu từ… Nó không thể bỏ qua các nguyên lý, các quy phạm tối thiểu của ngữ pháp, không thể bỏ qua các hệ thống mã hiệu trong bảng chữ cái, không thể bỏ qua các câu chuyện của các số phận đơn lẻ, các sự kiện xã hội, hay các biến cố bi hài của lịch sử, của thời đại.

Ở bất kỳ nơi đâu trong vũ trụ, nếu có con người văn minh, ở đó tồn tại nghệ thuật thị giác, bởi những công trình sáng tạo của họ không thể không tuân theo những quy luật của logic khoa học và tính thẩm mỹ.

Không có nghĩa rằng tất cả các nghệ sĩ đi theo các xu hướng nghệ thuật đương đại, đều có thể trở thành nghệ sĩ thực thụ. Bởi nó phụ thuộc vào khả năng thiết lập ý tưởng, khả năng sử dụng các phương tiện, các điều kiện, các hoàn cảnh có độ tương thích cao, có tính trí tuệ sâu sắc. Nó thực sự độc đáo, có phẩm chất cá nhân mãnh liệt, có sự phát hiện mới lạ, có khả năng lay động tâm hồn cảm xúc, đánh động trí tuệ và lòng trắc ẩn với những thông điệp về đời sống xã hội hiện đại. Còn không cũng chỉ là theo mốt để thoã mãn tâm lý du hí, rong chơi vui vẻ, trốn tránh sự khổ luyện của tay nghề và trí tuệ để nhanh được gọi là nghệ sĩ đương đại.

Không có nghĩa rằng: Sự ra đời của các trào lưu nghệ thuật đương đại, nghệ thuật hậu hiện đại sẽ lấn át triệt tiêu các trào lưu nghệ thuật của quá khứ, của truyền thống, lấn át triệt tiêu những giá trị nghệ thuật theo lối truyền thống đã trở nên kinh điển và bất tử. Các trào lưu nghệ thuật vẫn đồng hành cùng sự phát triển của nhân loại, ở mỗi thời đại, nó lại được mở rộng, lan toả, phong phú, rạng rỡ theo hơi thở nhịp sống đặc thù của thời đại đó.

Trong thời gian hơn một thế kỷ, lịch sử nghệ thuật nhân loại đã đi từ khái niệm nghệ thuật Hiện đại đến nghệ thuật Hậu hiện đại rồi Hậu hậu hiện đại cùng sự ra đời của khái niệm nghệ thuật đương đại, rất có thể trong tương lai không xa sẽ tiếp tục là Hậu đương đại, Hậu hậu đương đại. Cho dù là bất cứ khái niệm nghệ thuật nào, nghệ thuật vẫn không thể mất đi mà chỉ thay đổi thăng tiến từ dạng thức này sang dạng thức khác và điều hệ trọng là nó vẫn không ngoài mục đích phục vụ cho chính cảm xúc, tâm hồn và trí tuệ thông qua cảm nhận của thị giác, đôi mắt của chúng ta mãi mãi tò mò, khao khát, thèm muốn được tận hưởng những điều huyền diệu, kỳ dị nhất của nghệ thuật do chính con người tạo ra.

Trong thực tế đời sống người nghệ sĩ luôn phải đối đầu với những quy tắc do nghi thức đời áp đặt, phải chịu những áp lực của số đông không có tri thức thẩm mỹ, đó là một nghịch lý mà người nghệ sĩ phải biết chấp nhận, nhưng không từ bỏ cảm xúc, tư tưởng của mình. Người nghệ sĩ vẫn luôn suy tưởng và hành động…

“Là tình cờ của tư duy hay là bổn phận củatư tưởng.
Là nghệ thuật hay không là nghệ thuật
Là hiện sinh hay không là hiện sinh
Là thanh lọc tâm hồn hay buông thảbản năng
Là buông rơi cảm xúc hay lý trí kiềm chế
Là siêu việt hay không siêu việt
Là bất tử hay không bất tử
Là vĩnh cửu hay không vĩnh cửu
Là lý tưởng hay không lý tưởng
Là dấn thân đam mê hay cuộc sốngđời thường
Là khát vọng siêu tự do hay chấp nhậntruyền thống
Là khát vọng thiên tài hay lặng lẽ vô danh…”

Đó là quyền lựa chọn của mỗi cá nhân nghệ sĩ.

Theo VIETNAMFINEART.COM.VN

Tags: