Góc nhìn của chuyên gia quốc tế về tình trạng rừng Việt Nam

Trong khi Việt Nam phải trải qua một chặng đường dài nhiều thập kỷ để phục hồi các cánh rừng sau chiến tranh thì nạn phá rừng vẫn là vấn đề nan giải.

Góc nhìn của chuyên gia quốc tế về tình trạng rừng Việt Nam

Bài viết của tác giả Michael Tatarski và Shanti Johnson đăng trên trang Mongabay, 11/12/2016.

Thế giới đang chuyển dần đến một kỉ nguyên đạt ngưỡng đáng lo ngại với lượng 400 phần triệu khí CO2 trong không khí. Việc tích trữ Cacbon và Phục hồi rừng đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tại Đông Nam Á, 15 năm qua Việt Nam đang đạt được thành công lớn trong việc phục hồi lại môi trường sống tự nhiên đã bị mất và khôi phục những cánh rừng bị nguy hại. Tuy nhiên thậm chí ngay cả khi một quốc gia có độ che phủ rừng tăng dần lên thì vấn đề lớn hơn là phá rừng trên toàn cầu vẫn không suy giảm.

Đã gần 50 năm kể từ khi xảy ra những cuộc tấn công của vào những cánh rừng phía Nam Việt Nam, đạt đỉnh điểm vào năm 1967. Chỉ trong 1 năm, Hoa Kỳ đã rải hơn 5 triệu galon chất diệt cỏ, bao gồm cả chất độc màu da cam lên trên một vùng lãnh thổ rộng hơn 600.000 hecta. Họ đã cố gắng để loại bỏ sự che phủ của những cánh rừng – là nơi cung cấp chỗ ẩn nấp cho quân đội Bắc Việt, cũng như phá hủy các loại cây trồng. Mức độ nguy hại gây ra trong suốt chiến dịch đó thật khó để có thể xác định. Ước tính có những nơi độ che phủ của rừng bị ảnh hưởng từ 14-44% với những thiệt hại nghiêm trọng nhất gây ra đối với những cánh rừng ngập mặn ven biển.

Tại những khu vực có rừng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của chất diệt cỏ trong chiến tranh Việt Nam, những cánh đồng cỏ nhanh chóng mọc lên. Những khu vực này được các nhà nghiên cứu từ đại học Huế của Việt Nam và Đại học Queenland của Australia kết luận rằng sẽ không có khả năng có thể phục hồi trong thời gian ngắn nếu không có sự can thiệp của con người.

Thậm chí tại những khu vực nằm ngoài vùng tàn phá của chiến tranh, sự phục hồi của rừng cũng là một quá trình rất bấp bênh và gặp nhiều trở ngại. Độ che phủ của rừng đã suy giảm rất nhanh trong suốt thời gian nửa sau của thế kỉ 20, từ 43% trong đầu những năm 1940 đến 17% cuối những năm 1970, theo Rodolphe De Koninck, nhà Địa lý học và tác giả của cuốn : “Nạn phá rừng tại Việt Nam” viết năm 1999.

Sự phá huỷ đã gây ra sự suy thoái rừng, do đất nước muốn xây dựng lại từ khai thác gỗ, canh tác nương rẫy và lấn chiếm đất đai. Đến năm 1999, các nhà phân tích nước ngoài ước tính độ che phủ rừng ở Việt Nam chỉ còn 10%, mặc dù các nhà nghiên cứu tại Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam ước tính khoảng 30%.

Những sáng kiến mới

Mặc dù chỉ mang tính ước lượng nhưng tương lai của những cánh rừng tại Việt Nam khi đó đã trông thấy rất ảm đạm vào giữa những năm 1980 và Chính phủ đã bắt đầu chú ý đến điều đó.

Vào năm 1986, cả nước bắt đầu chuyển hướng tới một nền kinh tế thị trường có định hướng, được biết đến như Quá trình Đổi Mới. Trong khuôn khổ của quá trình này, việc quản lý rừng cũng được chuyển từ việc kiểm soát hoàn toàn của Chính phủ sang các hình thức tiếp cận nhiều thành phần bao gồm các tổ chức Phi Chính phủ, các doanh nghiệp, cộng đồng địa phương và các Ban quản lý.

Rừng tại Việt Nam ngay lập tức được phân thành 3 loại: Rừng đặc dụng (bao gồm các Vườn quốc gia, các Khu bảo tồn thiên nhiên và Các khu vực di tích lịch sử), Rừng phòng hộ (rừng tại các lưu vực sông, Rừng ngập mặn ven biển) và Rừng sản xuất (rừng phục vụ sản xuất công nghiệp). Sự phân loại này vẫn được duy trì cho đến bây giờ.

Theo ông Tô Xuân Phúc – một nhà phân tích đến từ Việt Nam làm việc cho tổ chức phi lợi nhuận Forest Trend tại Hoa Kỳ thì một trong những phần quan trọng của quá trình này là chính sách giao quyền kiểm soát rừng.

“Theo chính sách này thì 1.4 triệu hộ gia đình sẽ được giao quyền kiểm soát 3.4 triệu hecta đất rừng” Ông Phúc giải thích trong cuộc phỏng vấn với Mongabay. “Mỗi hộ gia đình như vậy sẽ sở hữu từ 1 đến 3 hecta đất rừng từ sự phân bổ này của Chính phủ”

Điều này mang đến sự khích lệ cho các cá nhân quan tâm tới đất đai của họ và những tác động sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả hai phía con người và cây trồng.

Ngoài việc tiến hành chuyển giao quyền quản lý, Chính phủ Việt Nam cũng bắt đầu thông qua một loạt các điều luật quan tâm đến chất lượng rừng và hỗ trợ việc tái trồng rừng tại thời điểm chuyển giao của thế kỷ này. Chính phủ cũng đã bắt đầu việc mở rộng mối quan hệ với các đối tác quốc tế nhằm mục đích bảo vệ môi trường.

Chương trình của Liên hợp quốc về giảm phát thải khí nhà kính từ việc phá rừng và suy thoái rừng ở các quốc gia đang phát triển (gọi tắt là REDD+) là một nỗ lực quốc tế được dành riêng để ngăn chặn nạn phá rừng và biến đối khí hậu đã xem Việt Nam như một trong những cộng tác viên đầu tiên của họ. Việt Nam đã trở thành một đất nước thí điểm chương trình REDD vào năm 2008. Ngay sau đó, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ quốc tế từ liên hợp quốc và Quỹ đối tác về Carbon rừng thuộc Ngân hàng Thế giới để thực hiện những nỗ lực nhằm tái phục hồi rừng và giảm phát thải khí nhà kính.

Bốn năm sau đó, năm 2012 tại COP 18 Việt Nam đã dành được rất nhiều sự hỗ trợ quốc tế, tham gia kí vào tuyến bố chúng với Na Uy nhằm nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính do phá rừng và tăng cường loại bỏ Cacbon thông qua việc tái trồng rừng.

“[Chính phủ Việt Nam] đã nhận ra những ảnh hưởng mà họ gặp phải và hiểu rằng những vấn đề kéo theo sau những ảnh hưởng đó” Điều phối viên Lecdecq từ chương trình Greater Mekong forest của WWF nói. “Họ cũng đang tiếp tục nỗ lực xây dựng năng lực của ngành Lâm nghiệp nhằm hỗ trợ cho ngành công nghiệp gỗ của đất nước mình”

Những nỗ lực quốc tế và địa phương nhằm bảo vệ các cánh rừng hiện có và trồng lại trên những vùng mất rừng đã giúp Việt Nam định hướng tốt hơn cho tương lai, tuy nhiên đất nước vẫn còn rất nhiều thách thức để đi lên phía trước.

Những câu chuyện thành công

Tính đến năm 2011 tổ chức Forest Trend đã nhận thấy rằng độ che phủ rừng ở Việt Nam đã gần bằng so mới mức trước chiến tranh bao gồm tất cả cả 3 loại rừng chiếm 40.2 % tổng diện tích đất. Cùng với đó, Tổ chức Nông Lương của Liên hợp quốc liên tục liệt Việt Nam vào những nước có diện tích rừng mở rộng hàng năm trong khoảng thời gian từ 1990-2005.

Tại những khu vực từng chịu ảnh hưởng một phần của chất diệt cỏ trong chiến tranh Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một số thành công trong việc gây trồng một số loài ngoại lai như Bạch đàn, Keo hay các Thông để tăng độ phì nhiêu của đất và tạo bóng râm cho phép các loài cây bản địa có thể phát triển. Phần lớn diện tích đất được cấp cho các hộ gia đình trong suốt quá trình phân cấp quản lý đất rừng trong những năm 1980 nay đã được sử dụng để trồng Keo.

“Độ che phủ rừng đang ngày càng được gia tăng và các cánh rừng trồng sở hữu bởi các hộ gia đình là mấu chốt của việc tái phục hồi” ông Phúc. Đại diện Forest Trend cho biết thêm.

Sự phát triển nhanh chóng của các loài ngoại lai cũng đã mang lại nhiếu nguồn thu cho các chủ sở hữu đất rừng. Tuy nhiên việc trồng duy nhất 1 loài sẽ không mang lại được sự Đa dạng sinh học và bảo vệ nguồn nước so với việc trồng các loài cây bản địa – Nhiều nghiên cứu đang nâng mức độ quan trọng của những áp lực mà môi trường phải gánh chịu khi mà biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng tăng.

Việc xem quá trình trồng rừng như là một chiến lược để bảo vệ Đất nước khỏi những tác động của biến đổi khí hậu đang trở thành một phần nền tảng phát triển của Việt Nam với những giá trị quí giá đặt vào việc trồng các loài cây ngập mặn nhằm chống lại nước biển dâng lên và sự gia tăng cường độ của các cơn bão nhiệt đới.

Một trong những dự án về rừng ngập mặn rất thành công là dự án tại Khu dự trữ sinh quyển Rừng ngập mặn Cần Giờ nằm ở phía Đông Nam của thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nơi được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 2000, đã gần như khôi phục chất lượng hoàn toàn ở các khu vực bị huỷ hoại trước đó. Thành tựu này đã được UNESCO ca ngợi trên Website của họ. Phần lớn những thành công này có được là do những nỗ lực đóng góp vào việc trồng lại các loài cây ngập mặn của các nhà nghiên cứu đến từ Đồng bằng sông Cửu Long và những cơ hội đến từ dịch vụ du lịch sinh thái đã kết nối khách du lịch và những người dân bản địa quay lại nơi đây.

Nhìn thấy thành công của dự án tại Cần Giờ, ngày càng có nhiều sự quan tâm từ chính quyền trung ương tại Hà Nội nhằm tăng dần sự nhận thức của người dân về vấn đề biến đổi khí hậu và những nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu bao gồm cả việc trồng lại rừng từ các thành phố đến các vùng nông thôn.

Ông Phúc rất đồng ý về việc Chính phủ Việt Nam đang nhấn mạnh tầm quan trọng của Biến đổi khí hậu tuy nhiên không phải đợi đến khi có hậu quả mới hành động.

“Đối với những chương trình bảo vệ Rừng đầu nguồn, Chính phủ Việt Nam đang dành khá nhiều tiền bạc vào vấn đề này. Tuy nhiên quy mô của các dự án vẫn còn nhỏ” ông Phúc nói thêm.

“Vẫn còn rất nhiều hành động được đề ra với yêu cầu cao tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa thực sự thấy nhiều hành động được thực hiện cụ thể”

Mặc dù có nhiều dự án đang được thực hiện và nhận thức của người dân cũng đang được nâng lên nhưng nhu cầu về các sản phẩm từ gỗ tại Việt Nam vẫn giữ ở mức cao.

Những thách thức đối với việc phục hồi rừng

Mặc dù việc bảo vệ môi trường là quan trọng và đang được ưu tiên cho các khu rừng. Việt Nam cũng không thể nào để ngành công nghiệp gỗ của họ chết yểu. Thay vào đó Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực tìm kiếm các biệp pháp quản lý tốt nhất nhằm cho phép việc khai thác gỗ bền vững trong các khu rừng sản xuất và tiếp tục gia tăng việc làm và kích thích kinh tế. Hầu hết những cánh rừng lâu năm còn lại ở Việt Nam hiện đang được bảo vệ tuy nhiên nhu cầu về gỗ đang đặt các cánh rừng già tại Campuchia và những nơi khác vào nguy cơ bị đe dọa.

Theo báo cáo của Vietnam News trong năm nay thì chỉ trong giai đoạn 2010-2015, độ che phủ của rừng đã giảm gần 6% hay mất hơn 300.000 ha rừng. Việc mất đi độ che phủ là do sự khó khăn trong việc ngăn chặn nạn khai thác gỗ trái phép và việc khai thác tài nguyên không có định hướng. Hai vấn đề này được ghi nhận tại Hội thảo quản lý rừng quốc gia được tổ chức ở Việt Nam vào tháng 9 năm 2016.

Ông Phúc tin rằng các chủ rừng nhỏ đang mở ra con đường phía trước cho việc phục hồi rừng. Hiện nay tại Việt Nam các công ty nhà nước đang kiểm soát phần lớn đất rừng. Theo ông Phúc thì khoảng 146 công ty nhà nước đang quản lý khoảng 2 triệu hecta rừng trong khi đó khoảng 3.4 triệu hecta rừng đang nằm trong tay của các chủ rừng nhỏ.

Theo ông Phúc thì “có rất nhiều vấn đề nghiêm trọng xảy ra với các công ty này bởi vì rất nhiều trong số đó đang sử dụng nguồn đất rừng một cách không hiệu quả”. “Chúng tôi vẫn đang vận động để xóa bỏ các công ty này và chuyển đổi đất rừng cho các cộng đồng địa phương.”

Hội thảo về việc Phân chia rừng đồng đều mới được đưa ra là một kế hoạch đề xuất bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn của Việt Nam nhằm giảm mất rừng ở Khu vực Tây Nguyên. Chi phí cho việc thực hiện kế hoạch này được ước tính tiêu tốn khoảng 886 triệu dollar cho giữa năm 2016 và 2025 và hơn một nửa ngân sách đến từ các tổ chức nước ngoài.

Bên cạnh Ngân sách Nhà nước, Tổ chức Forest Trend cũng nhận thấy rằng những chi phí địa phương cho việc xây dựng và chứng nhận cho các kế hoạch Quản lý và sản xuất rừng bền vững thường không được cho phép, và chính vì thế nên nhiều công ty kinh doanh gỗ không có khả năng để chứng nhận cũng như không quan tâm đến việc bắt đầu quá trình này như thế nào.

Vào năm 2012, tổ chức WWF ước tính rằng giá bán gỗ cần tăng ít nhất 12% để bù cho các chi phí liên quan đến một chứng chỉ rừng bền vững trên một diện tích 2000 hecta. Như trong năm 2014, chỉ có 136.706 hecta rừng tại Việt Nam được chứng nhận là có chứng chỉ quản rừng bền vững.

Tuy nhiên về quan điểm Chứng chỉ rừng thì chuyên gia Ledecq đến từ WWF có một cái nhìn rất tích cực.

“Việt Nam hiên đang có khoảng 674 công ty có chứng nhận về chuỗi giám hộ và họ đang đề xuất Chính phủ phát triển một chứng chỉ rừng quốc gia”, theo Ledecq. “ Họ hiểu được rằng họ đang rất cần sự phát triển bền vững để đảm bảo nguồn cung và tiếp cận thị trường trong dài hạn,”

Một vấn đề khác là chất lượng của các cánh rừng đang phát triển trong vài thập kỉ gần đây. Ông Phúc đồng ý rằng mặc dù độ che phủ rừng thực sự đã tăng nhưng chất lượng của các cánh rừng này thì khá nghèo.

“Tôi cho rằng chất lượng của các cánh rừng trồng đang đi xuống” Ông phúc cho biết. “Điều đó có ý nghĩa rằng những cánh rừng nguyên sinh đang vẫn bị chuyển đổi sang mục đích trồng các loài cây công nghiệp”

Tuy nhiên, Ông Phúc lo ngại rằng việc tăng giá cao su và sắn trong tương lai sẽ có thể đảo ngược những thành công đã đạt được của những dự án phục hồi rừng trong những năm gần đây.

“Một vài năm trước đây chúng tôi đã trông thấy tận mắt rất nhiều diện tích rừng bị chuyển đổi sang trồng Sắn bới các chủ rừng nhỏ, những người rất nghèo thậm chí bao gồm các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên” Ông Phúc cho biết. “Chính phủ Việt Nam không thể quản lý hết các trường hợp cụ thể trong quy mô nhỏ ở tất cả các khu rừng trồng và những nơi vùng sâu vùng xa thì vấn đề chuyển đổi đất này rất dễ dàng được lặp lại”.

“Nếu giá cả tăng trở lại thì tôi tin rằng sẽ chẳng còn cách nào để kiểm soát vấn đề này” Ông Phúc nhấn mạnh tính chất quốc tế của việc quản lý rừng.

“Điều đó có nghĩa là các cánh rừng tự nhiên sẽ giống như tại Tây Nguyên, không thể được bảo vệ”

Phạm vi ngoài biên giới

Trong khi Việt Nam đang đạt được những thành công rất lớn trong việc khôi phục lại những cánh rừng vốn có của họ thì Quốc gia này hiện vẫn đang nhập khẩu một lượng rất lớn gỗ từ nước Campuchia láng giềng, nơi mà việc khai thác gỗ hầu hết là bất hợp pháp và không bền vững.

Campuchia đã có rất nhiều hành động vũ lực liên lục nhằm vào các Nhà hoạt động chống khai thác gỗ trái phép bao gồm cả các nhà báo và các đại diện trong và ngoài nước. Xu hướng phá rừng vẽ nên một bức tranh ảm đạm cho tương lai nếu không có gì thay đổi tình trạng này.

Một bài báo được phát hành bởi The Diplomat vào tháng 9 năm 2016 nhận thấy Campuchia là nhà xuất khẩu gỗ lớn nhất cho Việt Nam và cũng xác định được rằng Trung Quốc đóng vai trò như một người chơi chính nắm quyền kiểm soát rừng trong khu vực.

Trong khi Việt Nam phải trải qua một chặng đường dài hơn 50 năm qua trong việc tái phục hồi các cánh rừng của họ thì vấn đề phá rừng vẫn không thể chấm dứt. Thay vào đó thì nhu cầu toàn cầu cho các sản phẩm về gỗ vẫn còn tồn tại và dĩ nhiên nhu cầu đó thúc đẩy việc xuất khẩu gỗ.

Theo BIODIVN.COM

Tags: