Đôi điều về những biểu tượng ẩn giấu trong hoa trái, tranh Tết

Có một mỹ tục mà người Việt xưa nay vẫn duy trì trong dịp Tết: Bày biện một mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, trưng bày hoa kiểng hay mua những bức tranh vẽ các điển tích xưa và lời chúc tốt lành về bài trí trong nhà để đón mừng năm mới.

Đôi điều về những biểu tượng ẩn giấu trong hoa trái, tranh Tết

Tuy nhiên, ít người quan tâm ý nghĩa của những loài hoa trái, cây kiểng mà họ bày biện, cũng ít ai am tường những điển tích, văn tự trên những bức tranh mà họ trang trí trong nhà. Thường thì người ta cho rằng “xưa bày, nay làm”, hay “thấy đẹp thì mua về bày chơi”. Nhưng thực ra, mỗi bông hoa, mỗi loại quả, mỗi hình vẽ hay văn tự viết trên tranh, đều mang một ý nghĩa sâu xa và thú vị, mà người xưa đã gửi gắm và chọn lựa để trưng bày trong dịp Tết.

Nhân lúc xuân nhàn, xin được kể về những điều sâu xa và thú vị đó.

Chưng hoa, bày quả

Người miền Nam ngày nay, khi soạn “mâm ngũ quả” dâng lên bàn thờ tổ tiên trong ba ngày Tết, thường chọn bốn loại quả: Mãng cầu, dừa, đu đủ và xoài, với ý nghĩa “cầu – vừa – đủ – xài”. Cũng có khi họ chỉ chọn: Mãng cầu, dưa hấu và xoài, hàm ý “cầu – dư – xài”.

Trong khi đó, người Trung Hoa lại thường tặng nhau những quả quýt lớn trong dịp Tết Nguyên đán. Quả quýt lớn, phát âm tiếng Hoa là daju, gần giống với daji, là âm đọc hai chữ đại cát, nghĩa là “may mắn lớn”. Người Việt đã chịu ảnh hưởng từ tục lệ này của người Hoa, nhưng không bắt chước người Hoa tặng nhau những quả quýt lớn để chúc mừng đại cát. Thay vào đó, họ mua những cây quất, cành trái sum xuê về chưng trong nhà. Những trái quất màu vàng mọng, chữ Hán là kim quất. Kim là “vàng”, biểu tượng của tài lộc; quất trùng âm với cát, nghĩa là tốt lành. Tài lộc và tốt lành là điều người Việt luôn cầu mong cho năm mới, vì thế, họ mua kim quất về chưng trong nhà để đón Tết.

Tuy nhiên, không phải lúc nào thú chơi hoa ngày Tết của người Việt cũng chịu ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa. Chẳng hạn như đối với hoa cúc. Hoa cúc theo quan niệm người Trung Hoa là biểu tượng của mùa thu, vì thế mà tháng chín mùa thu, thư tịch cổ Trung Hoa viết là cúc nguyệt: Tháng hoa cúc. Nhưng với người Việt thì hoa cúc lại tượng trưng cho sự thanh cao và khiêm tốn. Thế nên các cụ đồ Nho ngày trước thường chọn hoa cúc để chưng trong thư phòng ngày xuân. Với nhiều người khác, hoa cúc có nhiều tầng, nhiều cánh, là biểu trưng của sự sum vầy, nên họ chọn cúc để chơi Tết với ước nguyện gia đình được đoàn tụ, sum vầy trong dịp xuân về Tết đến.

Chơi cá, treo tranh

Ở Huế, vào những ngày giáp Tết, phía trước Thương Bạc hay Phu Văn Lâu thường xuất hiện những “quầy” bán cá vàng lưu động. Nhiều người Huế rất thích mua cá vàng đem về nuôi trong những chiếc bể nuôi cá bằng thủy tinh, trưng bày trong phòng khách để đón Tết. Đây cũng là một nét văn hóa ảnh hưởng từ Trung Hoa. Cá vàng, chữ Hán Việt là kim ngư. Kim ngư phát âm theo tiếng Hoa gần giống với cách đọc hai chữ kim ngọc. Nhiều cá vàng bơi trong chiếc bể, chữ Hán là kim ngư mãn đường, đồng âm với kim ngọc mãn đường, nghĩa là vàng ngọc đầy nhà. Đó là lý do mà nhiều người Huế thích trưng bày bể nuôi cá vàng mỗi khi xuân về.

Ngoài nuôi cá, người ta còn treo những bức tranh vẽ hình những con vật và những loài thảo mộc là biểu tượng của mùa xuân hoặc mang ý nghĩa cầu chúc tốt lành.

Chẳng hạn như bức tranh có chủ đề Xuân yến vẽ chim én và hoa mơ. Ở miền Bắc, hoa mơ nở rộ đồng nghĩa với mùa xuân đang về. Người Việt treo tranh vẽ chim én và hoa mơ để đón Tết thì “chuẩn không phải chỉnh”. Tuy nhiên, đề tài này lại bắt nguồn từ một điển tích của Trung Hoa, gọi là hạnh lâm xuân yến nghĩa là “thưởng thức yến tiệc mùa xuân trong vườn mơ đang khoe sắc. Hạnh lâm nghĩa là rừng hoa mơ; xuân yến là yến tiệc do vua ban thưởng cho đình thần trong dịp xuân về. Vì thế, bức tranh vẽ chim én và hoa mơ, ngoài ý nghĩa mừng xuân, còn hàm ý “mong đạt quyền cao chức trọng”. Bởi vì, phải có chức quyền thì mới được nhà vua ban yến trong dịp Tết.

Có rất nhiều bức tranh treo Tết in mộc bản hay vẽ bằng bút nước của người Việt ngày trước có hình con dơi, con hươu hay con dê. Mỗi con vật này đều biểu thị một ý nghĩa nhất định.

Dơi tiếng Hoa đọc là fu, đồng âm với chữ phúc: Hạnh phúc. Vì thế, con dơi được coi là biểu tượng của phúc, một trong những điều mà người ta thường cầu mong nhân dịp năm mới.

Hươu tiếng Hoa đọc là lu, đồng âm với chữ lộc: Bổng lộc. Vì thế, con hươu được coi là biểu tượng của tài lộc, cũng một trong những điều mà mọi người thường cầu xin trong dịp Tết. Đó là lý do người ta hay bắt gặp trong bộ tranh Tết mà người Việt ưa chuộng bức tranh có tên là Bách lộc đồ vẽ hình 100 con hươu, hàm ý “mong có nhiều bổng lộc”. Mặt khác, hình ảnh con hươu xuất hiện trên tranh, chữ Hán đắc lộc, tiếng Hoa đọc là dalu, vừa đồng âm với chữ đắc lộc, nghĩa là “được tài lộc”, vừa đồng âm với chữ đắc lộ, trong câu tam nguyên đắc lộ, hàm ý “mong đỗ đầu trong ba kỳ thi” thời xưa, là thi hương, thi hội và thi đình.

Dê, chữ Hán là dương, biểu thị cho chữ tường: Điềm tốt lành, đồng thời biểu thị cho chữ dương: Mặt trời, khí dương trong văn hóa Trung Hoa. Bởi lẽ, trong tiếng Hoa hai chữ này đều đọc là yang. Vì thế, mà con dê thường xuất hiện trên tranh treo Tết của người xưa và trên rất nhiều món đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn. Một trong những đề tài trang trí phổ biến trên tranh Tết có liên quan đến con dê là đề tài Tam dương khai thái, vẽ hình ba con dê hoặc một con dê và hai con cừu, vì trong chữ Hán, dê và cừu đều viết là dương. Bức tranh vẽ dê (hoặc dê và cừu), chủ đề Tam dương khai thái hàm ý dương khí từ vũ trụ sẽ mang mùa xuân đến cho trái đất sau một mùa đông lạnh giá và mang đến cho gia đình một tương lai đầy hứa hẹn.

Ngày Tết, ngắm những mâm ngũ quả, những bình hoa, chậu kiểng hay những bức tranh bài trí trong nhà, dường như ai cũng thấy trong lòng lâng lâng cảm xúc. Nhưng, nếu biết thêm những điều lý thú ẩn chứa đằng sau những bình hoa, chậu kiểng hay những bức tranh ấy, chắc hẳn sự “vui xuân, thưởng Tết” sẽ trở nên ý nghĩa và thú vị hơn.

Trong bài có sử dụng thông tin từ bài nghiên cứu The Anatomy of Rebus in Chinese Decoration Arts của TS. Ni Yibin (ĐH Quốc gia Singapore) in trong tạp chí Oriental Art, Vol. XLIX, No. 3, 2002).

Theo TRẦN ĐỨC ANH SƠN / NGƯỜI TIÊU DÙNG

Tags: ,