Chuyện về dân anh chị, giang hồ ở Hà Nội một thời

Hà Nội thời phong kiến và Pháp thuộc tồn tại các cá nhân, nhóm người bất chấp đạo đức truyền thống, đứng ngoài luật pháp. Tiếng Việt gọi họ là nặc nô, du côn, anh chị, lưu manh… Có nhiều cuốn sách, bài viết về Hà Nội xưa nhưng ít khi đề cập mặt trái.

Chuyện về dân anh chị, giang hồ ở Hà Nội một thời

Ném gạch vào kiệu vua

Từ nhà Lý đến nhà Lê, kinh đô Thăng Long có ba vòng, trong cùng nơi vua ở gọi là Cấm thành, nơi làm việc của gọi là Hoàng thành và ngoài cùng dân sống gọi là Kinh thành (hay Thị thành). Bao quanh kinh đô có đê/lũy bao bọc.

Thời Lý và Trần, kinh thành có 61 phường. Thời Trần, đứng đầu kinh thành là Bình Bạc Ty (tương đương như tổng đốc). Thời Lê, Thăng Long chia lại thành 36 phường, đứng đầu kinh thành là Phủ Doãn. Vì là kinh đô nên an ninh ở kinh thành vô cùng nghiêm ngặt.

Vào triều vua Trần Anh Tông (trị vì từ 1293-1314), kinh đô Thăng Long xuất hiện các quán rượu, hát xướng ban đêm. Vốn là người hiếu động, ham vui nên cứ đêm đêm vua lại lên kiệu cùng hơn chục thị vệ rời cấm thành đi chơi khắp kinh thành đến gà gáy mới về.

“Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Có đêm ra phố, vua bị bọn vô lại ném gạch trúng đầu, người theo hầu phải hét to: ‘Kiệu vua đấy’, bọn chúng mới tản chạy”. Vua đứng dưới trời nhưng trên thiên hạ, thấy vua không quì, không cúi mặt còn dám nhìn “long nhan” là mắc tội “khi quân”, tội này bị chém đầu. Biết người ngồi kiệu là vua mà dám ném thì chỉ có “bọn vô lại”.

Vào triều vua Lê Nhân Tông (trị vì từ 1442-1459), Lê Nhân Lập là con của Thiếu úy Lê Lan đã kết thân với tay anh chị trong kinh thành là Nguyễn Thọ Vực tổ chức đánh bạc để thu hồ. Bọn Lập và Vực lại còn họp nhau, kéo đàn em ngang nhiên trộm cướp khiến dân chúng vô cùng sợ hãi. Lập còn lợi dụng quyền lực của cha ra mặt nhũng nhiễu, ép kẻ cần cầu cạnh cha mình phải nộp tiền cho y. Trước những việc làm “coi trời bằng vung”, triều đình đã sai quân đến tận nhà Vực rồi dụ Lập và đồng bọn ra ngoài, sau đó thẳng tay chém đầu.

Lê Thánh Tông (trị vì từ 1460-1497) là vị vua anh minh, cả đời vì dân. Ông cấm vợ các quan lớn đi lại, chơi bời với nhau vì sợ họ cấu kết để buôn lậu và ăn của đút lót. Ông cũng cấm con cái các quan lớn lợi dụng chức quyền của cha làm việc phi pháp.

Phép nước nghiêm là vậy nhưng trong đám con quan vẫn nảy nòi những kẻ cậy gia thế làm càn. Một lần, con trai của Tây quân Đô đốc Lê Thiệt cưỡi ngựa phi thẳng vào chỗ đông người đã gây ra tai nạn nhưng thản nhiên bỏ mặc họ. Khi biết là con của Lê Thiệt, Thánh Tông đã sai lính nọc ra đánh 50 roi và cách chức ông bố.

Đến thời Lê Trung Hưng (1533-1789), dân kinh thành, từ tầng lớp trung lưu đến dân thường nở rộ phong trào chơi hoa, cây thế, quái thạch. Thấy có thể kiếm được tiền, ban ngày bọn hoạn quan cung giám đi dò xem nhà nào có chậu hoa, cây cảnh, chim tốt, khướu hay thì biên ngay hai chữ “Phụng thủ” vào. Đêm đến, bọn chúng trèo qua tường thành lẻn ra ngoài sai tay chân bê những thứ đã biên hai chữ Phụng thủ. Hôm sau, chúng đến nhà buộc tội gia chủ đem giấu vật cung phụng, giở giọng côn đồ ép chủ nhà phải nộp tiền, nếu không sẽ báo quan. Đúng là ỷ thế làm càn, khiến dân chúng Thăng Long bất bình nhưng phải ngậm miệng.

Nặc nô đòi nợ và chửi thuê

Cuối thế kỷ 19, Pháp chiếm Hà Nội, xã hội dở giăng, dở đèn đã sinh ra nhiều tệ nạn: trộm cướp, nặc nô, côn đồ. Đầu thế kỷ 20 ở phố Hàng Lược có mụ Tư Đòn là trùm nặc nô. Bà ta làm nghề đòi nợ thuê, có lũ đàn em hung hãn, chỉ cần mụ nháy mắt, lập tức lũ đàn em xông vào phá phách hay đánh đòn hội đồng, không ai dám can, chỉ ngó rồi vội vàng bỏ đi. Tư Đòn có thân hình cao lớn, nhiều lần dám đánh nhau với Tây khiến dân quanh chợ Đồng Xuân phải lè lưỡi, lắc đầu.

Khi Tư Đòn đã nhận lời với chủ nợ và dẫn đàn em đi đòi thì con nợ hoặc là vay mượn để trả, hoặc là quỳ lạy xin khất. Đã khất thì phải trả đúng hẹn, không thì ôm đầu máu, phục thuốc cả năm vẫn chưa khỏe. Tư Đòn làm nghề đòi nợ nhưng cũng là kẻ cho con nợ vay với lãi suất cắt cổ. Tuy nhiên “anh hùng nhất khoảnh”, địa bàn của Tư Đòn chỉ là quanh khu vực Đồng Xuân.

Không chỉ có nặc nô đòi nợ mà còn có nặc nô chửi thuê. Khi nhà này với nhà kia mâu thuẫn nhưng không hòa giải được, thế nào một bên cũng thuê nặc nô đến chửi. Làm nặc nô chửi thuê thường là kẻ đồng bóng, không biết sợ là gì. Thiên phú cho bọn họ khả năng chửi có vần, thành bài với lời lẽ cay nghiệt.

Nặc nô có thể chửi từ ngày này qua ngày khác, cho đến khi bên bị chửi đến xin dàn hòa mới thôi. Cuối thế kỷ 19, có mụ Xuân nặc nô lấy gã Tây già, khi không ai thuê thì uống rượu rồi ra đầu phố Hàng Đường chửi mua vui cho thiên hạ. Chửi nhiều cũng mệt nên đám nặc nô này thường lấy sái thuốc phiện cho vào nước uống cho có sức.

Nhưng nặc nô xuất hiện từ khi nào? Khi bình định xong Đàng Ngoài, vua Gia Long không đưa những binh lính Đàng Trong già yếu, thương tật về Huế mà để họ ở lại. Tại Hà Nội, bọn họ quây quần trong 2 xóm ở khu vực Ô Chợ Dừa. Đám lính mộ này ước chừng khoảng 500-600 người gồm đủ hạng người, trong đó có du thủ, du thực, hút xách.

Vì ngân khố hạn hẹp, không thể nuôi được nên triều đình đã nghĩ ra việc cho họ đi đốc thúc và thu thuế của nông dân. Hàng năm đến vụ thuế, bọn họ được chia thành nhiều nhóm cầm “hỏa bài” (làm bằng gỗ sơn trắng có chữ hỏa) do triều đình cấp tỏa đi khắp nơi. Triều đình qui định tỷ lệ khấu cấp lại cho họ tùy theo tiến độ thu nhanh hay chậm, nhiều hay ít. Để hưởng nhiều, bọn họ không từ thủ đoạn nào, kể cả tàn độc, vô nhân tính nên dân gọi họ là “quân lặc nô”.

Một trong những lý do mà Phan Bá Vành (còn gọi là Ba Vành) tập hợp nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ khởi nghĩa chống lại triều đình vì vua Minh Mạng dung túng lặc nô. Và để lấy lòng dân Bắc Hà, Minh Mạng đã phải bãi lệ phái lặc nô đi thúc thuế, thu thuế. Sau khi Minh Mạng bãi lệ, nhiều lặc nô đã quay ra làm ăn tử tế nhưng một số lại tiếp tục đi đòi nợ thuê, trở thành du côn chuyên nghiệp.

Lặc tiếng Hán là cưỡng bức, bắt ép, còn nô có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa: sai khiến, lặc nô có nghĩa là sai khiến đi cưỡng bức người khác. Lặc nô còn có nghĩa nữa là người đàn bà chuyên làm việc bức ép. Tại sao lặc nô lại thành nặc nô? Lý do là dân vùng đồng bằng Đàng Ngoài phát âm l thành n nên lặc nô thành nặc nô.

Biết nặc nô, dân “anh chị” gây mất an ninh trật tự nhưng cảnh sát Pháp không ngăn chặn mà còn sử dụng bọn họ. Cuối thế kỷ 19, đốc lý Hà Nội ra lệnh cho chủ các nhà tre nứa lá xung quanh khu vực Hồ Gươm phải làm nhà gạch, nếu không sẽ bị chính quyền trưng mua. Vì trưng mua với giá rẻ các gia đình đã ngầm thống nhất không bán. Để có lý do, chính quyền ngầm thuê dân “anh chị” ban đêm phóng hỏa đốt những nhà lá này, với lý do làm mất mỹ quan, chính quyền đã trưng mua rẻ.

Gái Hàng Khoai, trai Hàng Lược

Năm 1889, hội đồng thành phố Hà Nội cho lấp sông Tô Lịch làm chợ Đồng Xuân thay cho chợ Cầu Đông đã quá chật hẹp. Và thôn Huyền Thiên cạnh đó trở thành phố Hàng Khoai.

Khi chưa xây, chợ Đồng Xuân họp ở khoảng đất rộng, có rào tre quây xung quanh để thu thuế người vào bán hàng. Hàng Khoai cũng thành nơi bán lá thuốc và các mặt hàng tiêu dùng vặt vãnh. Rồi Đồng Xuân được xây cất bằng khung sắt. Vì thuế là nguồn thu quan trọng cho ngân sách thành phố nên chính quyền cho họp hàng ngày và họp theo phiên. Vào phiên, bà con ngoại thành mang nông sản vào bán ngồi tràn ra Hàng Khoai.

Ngày 23 tháng Chạp, chợ hoa họp ở cửa chợ Đồng Xuân kéo sang cả Hàng Khoai. Kẻ mua người bán choán hết con đường nhỏ che chắn các cửa hàng khiến các bà, các cô ngồi sạp bực tức, thế là họ mắng mỏ, xua đuổi. Và phiên chợ nào cũng xảy ra những chuyện như vậy nên hình ảnh không đẹp về các cô bán hàng lan truyền trong dân đi chợ.

Giọt nước tràn ly chính là hai người đàn bà tai tiếng: Tư Đòn và Voi Xanh. Cả hai sống ở Hàng Lược nhưng đất làm ăn lại ở Hàng Khoai. Mụ Voi Xanh chỉ huy lũ đàn em thuê trọ ở ngõ Hàng Khoai chuyên móc túi và ăn cắp đồ của dân đi chợ phiên. Ai tố cáo, Voi Xanh sai đàn em xông vào đánh nhừ tử. Và câu “Gái Hàng Khoai” truyền từ người này sang người khác.

Vì sao có câu “Trai Hàng Lược”? Năm 1898, người Pháp cho làm cầu Long Biên nên Hàng Lược gần các gầm cầu dẫn. Dân lang bạt tứ chiếng tụ tập ở các khoang gầm cầu này. Ít nhất có 3 gã trùm du côn sống ở Hàng Lược gồm: Tư Đậu, Năm Bông và Ba Lập Lờ. Bọn họ tác oai tác quái ở bến tàu thủy, bến Nứa và xung quanh chợ Đồng Xuân. Dưới trướng 3 gã có lũ đàn em sống ở gầm cầu. Ai thuê đánh nhau thì cả bọn mang gậy gộc đi chiến, có khi ngứa mắt ai đó bọn này cũng sai đàn em ra tay.

Thi thoảng du côn Hàng Lược ra đánh nhau với du côn phố Chợ Gạo do gã tên là Khuể cầm đầu. Khuể bảo kê cánh buôn gạo ở khu vực này. Có đêm hai bên dàn trận ở Cột đồng hồ (đường Trần Nhật Duật ngày nay) đánh nhau bằng gậy gộc, xà beng gây náo loạn hàng phố. Để chỉ sự hung hãn, côn đồ của bọn này, dân quanh vùng gộp lại thành câu “Gái Hàng Khoai, trai Hàng Lược”.

Bảo kê cô đầu Khâm Thiên

Đầu thế kỷ 20, Hàng Giấy vẫn đông đúc các quán ca trù. Ban đêm, phố nhộn nhịp, xe tay đưa đón khách, thỉnh thoảng lại xảy ra chuyện ghen tuông nên chính quyền để mắt. Năm 1915, cảnh sát Hà Nội lập bót Hàng Đậu. “Dân chơi” đến ca quán thấy cảnh sát Tây lững lững cũng ngại nên các ca quán ngày càng vắng khách.

Rồi nhà đất ở Hàng Giấy tăng cao kéo tiền thuê nhà cũng cao, nhiều ca quán không kham nổi đã tìm vị trí xa trung tâm. Và Thái Hà là địa điểm được lựa chọn. Thái Hà thuộc tỉnh Hà Đông nhưng sát ngay Hà Nội, thuận tiện việc đi lại và tiền nhà cũng rẻ nên các ca quán ùn ùn về đây thuê.

Tuy nhiên, các ca quán bị tên Tiến, con trai Trần Vương, một trùm du côn khét tiếng khu vực này quấy phá. Gã chọc ghẹo ả đào, đòi tiền bảo kê các quan viên và gây sự với khách. Lúc này, phố Khâm Thiên mới hình thành, có khá nhiều nhà xây, vì thế một số nhà hát đã chuyển sang Khâm Thiên, nhờ Cửu Khê và Bát Chắm che chở.

Bát Chắm là lý trưởng làm nghề bán thuốc đông y điều kinh, có mối quan hệ rộng và có nhiều tay chân. Cửu Khê là tay anh chị có tiền. Hai người này có công mở mang phố Khâm Thiên bằng cách bỏ tiền mua đất giá rẻ làm nhà cho thuê. Việc xuất hiện các ca quán làm tăng giá nhà đất ở phố này nên Bát Chắm và Cửu Khê tung đàn em bảo vệ, vì thế các quan ca trù được yên ổn làm ăn.

Hỗn chiến rằm Trung thu

Đã là dân “anh chị”, kẻ nào cũng muốn mở rộng địa bàn và cách hiệu quả nhất là đánh nhau. Tết Trung thu là dịp kiếm ăn nên bọn họ đứng ra tổ chức múa sư tử và múa rồng.

Đạo cụ được chở trên nhiều xe bò nhưng xe cuối cùng bao giờ cũng là “chiến cụ” gồm xà beng, xẻng, cuốc, dao gậy tre… Nếu bị đám khác cướp địa bàn, tất cả nhanh chóng lấy “chiến cụ” lao vào đánh đuổi. Đám du côn đi múa ăn mặc như phường tuồng, lại có bọn mặc giống Lương Sơn Bạc để ra oai.

Vì sao bọn họ lại có hoạt động văn hóa này? Dưới danh nghĩa múa sư tử, chúng cho đàn em chặn trước cửa hàng, đánh trống và múa cho đến khi chủ cho tiền mới đi. Rồi chúng sang cửa hàng khác, lại đánh trống, lại múa, lại vòi tiền, hết phố này thì chuyển sang phố khác. Với các nhà buôn lớn ở khu vực phố cổ, chủ treo tiền thưởng rất to ở trên cao, các nhóm tranh nhau múa và không bên nào chịu bên nào sẽ dẫn đến choảng nhau. Hai nhóm sứt đầu mẻ trán cùng rút lui, cuối cùng nhóm thứ ba hưởng lợi.

Không chỉ dân “anh chị” người Việt đánh nhau mà có khi bọn họ còn chiến cả Tây để lấy số má. Một lần, nhóm Ba Sinh và cánh lính nhà thuốc (tức binh lính làm trong xưởng công binh của Pháp) đưa đơn lên đốc lý thành phố xin phép đánh nhau tại bãi Đồng Nhân (trên bờ sông Hồng). Đốc lý đồng ý, hứa sẽ cho lính khố xanh và đội xếp đến giữ trật tự.

Đến giờ giao chiến, hai bên lôi đinh ba, mã tấu, xẻng, cuốc, chiêng, trống và cả những cỗ quan tài ra “chiến trường”. Khi hai bên dàn trận thì quan Tây ra lệnh cho hàng trăm lính khố xanh bao vây, bắn súng chỉ thiên, bắt gọn người của hai phe, tịch thu hết chiến cụ và quan tài. Sở cẩm phạt mỗi tên một món tiền, tịch thu đồ đạc đem bán đấu giá.

Trong nửa đầu thế kỷ 20 ở Hà Nội, hầu như khu vực nào cũng có dân “anh chị”. Bãi Phúc Xá có Lẫm, Đức Lùn, Hai Ổi; khu vực Trần Quý Cáp có Ba Sinh; phố Khâm Thiên có Phúc Đen… Báo chí biết nhưng không dám viết vì sợ bọn chúng trả thù nên những chuyện về dân “anh chị” sau năm 1954 mới được mọi người kể lại.

Theo NGUYỄN NGỌC TIẾN / VIETNAMNET

Tags: , ,