Chuyện kể của một lính dù Pháp: Thoát chết ở Điện Biên Phủ

Lính Việt tiến đến một cách thận trọng. Họ gọi nhau: “Maolen! Maolen”. Tôi nhớ lại lúc đó tôi đã nói thầm: “Chúng ta đã bị đánh bại”…

Chuyện kể của một lính dù Pháp: Thoát chết ở Điện Biên Phủ

Bài lược dịch từ bài của tác giả Jean Pierre Biot (Pháp) trong tập tư liệu của Marc Brincourt, tạp chí ảnh Paris Match nhan đề “Điện Biên Phủ hết ảo tưởng”. Câu chuyện được kể từ một tù binh Pháp ở Điện Biên Phủ. Người này đã được phóng thích ở Sầm Sơn sau bốn tháng bị bắt ở Điện Biên Phủ.

Đầu tháng 4-1954, 12 máy bay Dakota cất cánh ban đêm từ Hà Nội chở một tiểu đoàn dù cơ động chi viện cho Điện Biên Phủ… Anh lính dù Ernest thuộc tiểu đoàn dù thứ hai nhớ lại trận chiến ở đây mở đầu cho hồi thứ nhất của tấn thảm kịch Điện Biên Phủ – nơi mà các cảm xúc của con người dâng lên đến đỉnh điểm.

Rơi vào tử địa

“Trong máy bay mọi người còn nói tào lao chút ít nhưng không lâu. Hai hay ba anh cất tiếng hát nhưng lạc giọng quá đành im ngay. Mỗi người thầm nhớ lại những kỷ niệm, với nỗi sợ riêng vì sắp phải nhảy xuống cái lò lửa kịch chiến dưới làn đạn loang loáng của cao xạ phòng không đối phương. Tôi thầm nghĩ miễn làm sao không bị tử thần đón đi khi dù chạm đất.

Đèn đỏ bật. Một tiếng hô: “Tất cả đứng dậy! Móc dù vào”. “Người thứ nhất vào vị trí”. Đèn xanh bật, tiếng chuông rít lên. Goooo! Được rồi, tôi chao đảo ở độ cao cách mặt đất chỉ độ 150 m, 200 m để có thể tránh tầm đạn, lẽ ra bình thường là 400 m. Trong trận chiến nào có bao giờ bình thường. Tôi rơi trúng vào hàng rào dây thép gai. Còn may, trong khi cả chục chiến hữu của tôi rơi vào trận địa quân đội Việt! Đạn nổ khắp nơi. Tôi loay hoay gỡ dù để bò ra. Tuy nhiên, trong tiếng ầm ầm chát chúa, tôi nghe thấy một anh lê dương hét lên: “Chớ động đậy. Mìn được gài khắp rào dây thép gai. Đến sáng tôi sẽ dẫn anh thoát nơi này”.

Cho đến hết đêm tôi không chợp mắt, cứ nằm yên không dám động đến cả ngón tay, ngón chân. Rạng sáng anh kia tới. Tôi tỉnh cả người. “Nào đi lên… Không được lê chân… Nhích sang phải một chút… Cẩn thận đấy… Nhẹ nhẹ thôi…”. Cứ như thế, gần một tiếng đồng hồ tôi mới tiến được độ 15 m.

Chạm trán ác liệt

Đối với tôi và các chiến hữu thì từ đầu tháng 4 đến ngày 7-5-1954 chỉ có đánh đấm ngày đêm không nghỉ. Chết, bị thương, bị bắt làm tù binh ngày càng nhiều. Hôm 1-5, phía Việt Nam đã dựng những cờ đỏ xung quanh tập đoàn cứ điểm. Cứ như tấm vải đỏ mênh mông nhử bò tót để phía Pháp bị kích động tiến ra khỏi những quả đồi còn chiếm giữ.

Tôi có hai người bạn tên là Bogossian và Nedelec. Chúng tôi đã quen nhau từ lúc cùng được huấn luyện ở Quimper và đã sát cánh bay với nhau từ khi cùng sang Đông Dương tháng 11-1952. Trong khi đụng độ với địch, Bogossian đã trúng một viên đạn súng máy và cậu ta chết ngay. Nedelec bị một quả đạn cối, đứt bả vai. Tôi ở ngay cạnh anh ta. Suốt đêm anh ta đau đớn quằn quại, rên la và trong cơn hấp hối anh ta van nài tôi kết liễu đời anh ta đi. Tôi thà gào thét, khóc lóc còn hơn là giúp anh chuyện đó. Anh ta cứ vật vã khẩn cầu cho được chết ngay. Không một ai có can đảm làm việc đó. Đến gần sáng Nedelec chết.

Chúng tôi còn phải cầm cự sáu ngày nữa cùng với những anh em sống sót từ các đại đội khác. Sáng 7-5, Brechignac – sếp của tiểu đoàn dù thứ nhất quyết định một trận phản kích cuối cùng. Ông nói: “Đây là trận đánh vì danh dự vớt vát của khoảng 100 lính dù cuối cùng còn sót lại trong số 700 lính của tiểu đoàn”. Ngay từ 7 giờ sáng, sau khi ném hết những quả lựu đạn cuối cùng và những loạt súng máy, toán lính dù vừa xông lên vừa la hét. Chạm trán với lính Việt, hai bên đánh giáp lá cà một trận quyết liệt với dao găm, lưỡi lê, báng súng. Thật kinh khủng, cuộc giáp lá cà diễn ra trong suốt hai tiếng. Đến 9 giờ, những người sống sót của cả hai bên cùng rút về hầm hào mình. Chúng tôi biết rõ thế là đi tong rồi. Tôi bỗng thấy ngạc nhiên lạ lùng. Thì ra ba ngày hôm nay mình không ăn gì trừ một hộp cá sacđin lấy từ một xác chết 48 tiếng trước.

“Chúng ta đã bị đánh bại”

Trời mưa tầm tã suốt mấy ngày nay. Tôi bị ướt hết. Tôi hơi bàng hoàng khi được lệnh phá hủy vũ khí rồi chờ đợi những gì diễn ra sau đó nhưng không được đầu hàng. Phá bằng cái gì mới được chứ. Tôi dùng hai tay móc bùn thành một cái lỗ và chôn súng xuống đó. Cũng hết nhẽ rồi, súng cũng vô tích sự vì đã hết cả đạn. Tôi dựa lưng vào thành hào. Lính Việt đã đến gần.

Toàn chiến trường đã im tiếng súng. Yên tĩnh lạ thường. Mới ít phút trước đây còn đạn réo ầm ầm.

Lính Việt tiến đến một cách thận trọng. Họ gọi nhau: “Maolen! Maolen”. Tôi nhớ lại lúc đó tôi đã nói thầm: “Chúng ta đã bị đánh bại”…

Lính Việt nghiêm túc. Họ xử sự như những người lính. Họ giải chúng tôi đi trên tỉnh lộ 41. Chúng tôi gặp những tù binh khác kiệt sức, thẫn thờ. Chúng tôi đi như những người máy”.

Trước lúc đại bại ở Điện Biên Phủ

Ngày 19-2-1954, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp René Pleven khi thăm Điện Biên Phủ đã gắn huân chương cho Trung tá Piroth, phụ trách pháo binh ở Điện Biên phủ. Piroth hứa với cấp trên sẽ buộc pháo binh Việt phải vô hiệu. Tuy nhiên, chiều 13-3-1954, pháo binh Việt Nam đã dội lửa vào cứ điểm Him Lam mở màn cho chiến dịch Điện Biên Phủ khiến hầm chỉ huy bị trúng đạn, các sĩ quan Pháp chỉ huy đều chết và Him Lam bị hạ ngay đêm đó. Trung tá Gaucher, chỉ huy phó của Đại tá De Castries ở phân khu trung tâm, cũng bị pháo bắn tử thương ở hầm chỉ huy ngay đêm 13-3. Piroth cảm thấy bị mất danh dự đã rút lựu đạn tự sát hai ngày sau khi bị Langlais – người lên thay Gaucher làm chỉ huy phó đã khiển trách ông ta là đánh giá quá thấp lực lượng pháo binh Việt khiến Pháp khó bề chống đỡ và bị tổn thất nặng nề.

Ba ngày trước khi Điện Biên Phủ thất thủ, tướng Bodet phụ trách không quân đã giận dữ nói với Đại úy Pouget khi ông này sẽ phải nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 5-5: “Thật là ngu xuẩn. Chính phủ thì hay thay đổi. Các tướng thì không có lòng tin. Thế mà cứ ném quân vào “họng quỷ” thế này”. Quy trách nhiệm thảm bại Điện Biên Phủ, tướng Navarre bị chỉ trích là lúc nhậm chức ông ta đã thú nhận ông chẳng hiểu gì về cách đánh trận ở Đông Dương, nơi ông chưa hề đặt chân tới trước đây. Về tướng Cogny – tốt nghiệp bách khoa và tiến sĩ luật khoa – thì Navarre cho rằng ông ta chỉ đứng chụp ảnh, còn thực ra hầu như chả bao giờ đánh trận. Còn tướng De Castries bị phê bình tuy là chỉ huy kỵ binh sáng giá nhưng chẳng chỉ huy nổi các cuộc hành quân của bộ binh.

Điện Biên Phủ những phút cuối cùng. Khoảng 17 giờ ngày 7-5-1954, tướng De Castries (mới được thăng cấp tháng 4-1954) đã thông báo cho tướng Cogny ở Hà Nội như sau: “Tình thế cực kỳ nghiêm trọng. Đánh loạn xạ. Quân Việt đã chiếm hết các điểm tựa. Tôi cảm thấy trận đánh sắp kết liễu nhưng chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng”. Tướng Cogny đáp: “Rõ. Chiến đấu tới cùng. Không có chuyện giương cờ trắng ở Điện Biên Phủ sau khi đã chiến đấu ngoan cường như thế”. Tướng De Castries: “Rõ. Chúng tôi sẽ phá hủy đại bác, tất cả radio và trạm vô tuyến sẽ bị phá vào 17 giờ 30. Chúng tôi đánh đến cùng. Xin chào tướng quân. Nước Pháp muôn năm!”.

Tiếp theo, ở máy bộ đàm riêng của tướng De Castries: “Trong năm phút sẽ cho nổ tung ở đây. Quân Việt chỉ còn cách vài mét. Chào tất cả!”. Sau đó im lặng hoàn toàn.

Sưu tầm và lược dịch trong lưu trữ
của báo 
Le Monde ở Paris

.

Theo PHÁP LUẬT TPHCM

Tags: ,