Định kiến luôn tồn tại và phổ biến, điều quan trọng là phải thừa nhận sự tồn tại của nó, để quản lý và tránh gây hại cho những người thuộc nhóm yếu thế.
Ngụy biện đã ăn sâu vào tâm thức người Việt, dường như nó là nét văn hóa, đặc biệt nhóm ngụy biện dựa vào sự duy cảm. Vì thế việc xóa bỏ nó không phải là một sớm một chiều mà phải đấu tranh liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.
“Cái tôi” là cách mỗi người tự khẳng định mình trước người khác, không muốn mình là kẻ vô hình, không muốn là người mờ nhạt,… Con người từ khi ra đời đã tồn tại cái tôi.
Con người càng lớn lên trong kỷ luật, trong tình yêu và trong kinh nghiệm sống thì hiểu biết của con người về thế giới và về vị trí của mình trong thế giới đó càng tự nhiên phát triển nhanh.
Thay vì thực sự hài lòng với cuộc sống bận rộn của mình, chúng ta lại thường xuyên cảm thấy lo lắng và căng thẳng, dù đã cẩn thận che giấu điều đó với người khác và chính mình.
Người Phật tử nước ta nhiều khi kính lạy tượng Phật bằng đồng, bằng gỗ, cho đấy là Phật mà quên không thấy được vị Phật trong tâm mình, tức Phật tính.
Trong các trường phái triết học theo chủ nghĩa duy khoa học, trường phái có ảnh hưởng lớn và lâu nhất là chủ nghĩa thực chứng (Positivism).
Lý Hồng Chí cho rằng toàn chư thần xuống thế gian đều phải “ký thệ ước” với ông ta. Và lịch sử nền văn minh chỉ có 5.000 năm, muốn sống sót thì phải tin theo Lý.
Hầu như không ít người khi nói đến chủ nghĩa thực dụng (Utilitarianism) là hiểu với ý nghĩa không được tích cực cho lắm, do từ việc hiểu với ý nghĩa thông dụng, đời thường của từ ngữ này.










