Bàn về ‘phiên bản đặc biệt của chủ nghĩa xã hội’ ở Trung Quốc

Theo các nhà phân tích nghiêm túc, trong một tương lai gần Trung Quốc sẽ không biến đổi thành một nền dân chủ tự do. Nhưng ở một mức độ phát triển cao hơn nữa, Trung Quốc chắc chắn sẽ xây dựng một xã hội dân chủ. Chỉ có điều đây cũng sẽ là một xã hội dân chủ “đặc sắc Trung Quốc”.

Bàn về ‘phiên bản đặc biệt của chủ nghĩa xã hội’ ở Trung Quốc

Tác giả: Alexey Vasilyevich Kiva, Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Chính trị học.

Nguồn: Báo Độc lập (Nga) số ra ngày 22/4/2015

Tất cả những gì đang diễn ra ở Trung Quốc được cả thế giới theo dõi chặt chẽ và cũng không làm ai phải ngạc nhiên. Trong 30 năm từ năm 1979, GDP của Trung Quốc đã tăng 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng hơn 20 lần; kim ngạch thương mại tăng hơn 100 lần; hoàn thành công nghiệp hóa và tạo ra một cơ sở vững chắc để giải quyết các nhiệm vụ do Đại hội lần thứ XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc (2007) đề ra, biến Trung Quốc từ một “công xưởng của thế giới” thành một “nhà máy của tri thức”.

Trong những năm khủng hoảng, Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tuy có giảm, song vẫn dẫn đầu thế giới. Năm 2009, GDP tăng 9,2%; năm 2010 – 10,3%; năm 2011 – 9,2%; năm 2012 – 7,6%; năm 2013 – 7,6% và năm 2014 – 7,4%. GDP năm 2014 đạt 10.500 tỷ USD. Và nếu tính theo sức mua tương đương (PPP), thì người Trung Quốc còn cao hơn một chút so với người Mỹ. Cũng phải nói thêm rằng hiện GDP của Trung Quốc đã lớn gấp 6 lần GDP của Nga, khi ông Đặng Tiểu Bình bắt đầu cải cách, nền kinh tế Trung Quốc chỉ bằng 1/3 kinh tế Nga. Dự trữ vàng và ngoại hối của Trung Quốc trong năm 2014 đạt gần 4000 tỷ USD; kim ngạch thương mại cũng hơn 4000 tỷ USD. Công nghiệp sản xuất ô tô tăng với “tốc độ bão táp”: Năm 1978, trước khi cải cách, Trung Quốc đạt sản lượng 149.000 xe ô tô/năm. Đến năm 2010, 2011, mỗi năm nước này đã có thể xuất xưởng 18 triệu xe, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Năm 2012 sản lượng ô tô tăng lên 19 triệu 300 nghìn xe. Năm 2013 đạt 20 triệu xe và năm 2014 lên đến mức 22 triệu xe.

Một trong những thành tựu đầy ấn tượng không thể không nhắc đến của Trung Quốc chính là sự phát triển của khoa học và công nghệ cao. Hàng triệu người Trung Quốc đã được đào tạo đại học và sau đại học tại các quốc gia phương Tây, chủ yếu là tại Mỹ. (Thậm chí ở Mỹ còn có một câu chuyện đùa rằng: Trường Đại học của Mỹ là nơi đào tạo sinh viên Trung Quốc, và là nơi giảng dạy của giáo sư Nga, những người rời bỏ nước Nga đến Mỹ từ thời Liên Xô trước đây).

Nhiều người trong số họ đã trở thành chuyên gia nổi tiếng thế giới và theo tiếng gọi của Bắc Kinh đã trở về tổ quốc, và họ đã được cất nhắc vào những vị trí lãnh đạo của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, các học viện Kỹ thuật, các trường đại học, cũng như các công ty lớn,… Trong giai đoạn 10 năm, từ năm 2000 đến năm 2010, số lượng các nhà nghiên cứu khoa học đã tăng gấp 2,3 lần, đạt 3,18 triệu người. 16 trường đại học của Trung Quốc đã lọt vào danh sách các trường đại học tốt nhất thế giới do tạp chí Times bình chọn năm 2013, trong đó có cả các trường đại học của Hong Kong, trong khi Nga chỉ có một đại diện là Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên Lomonosov (MGU).

Trong 10 năm qua, tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao của Trung Quốc so với cả thế giới đã tăng từ 6% lên 22%, trong khi đó tỷ trọng của Mỹ giảm từ 21% xuống còn 15%. (Tỷ trọng của Nga, không tính các thiết bị quân sự, “ổn định” ở mức 0,3 – 0,5%). Với sự hợp tác tích cực của phương Tây, Trung Quốc đã thành lập hai “Thung lũng Silicon”, đó là Thâm Quyến và Công viên khoa học Trung Quan Thôn ở Bắc Kinh, cũng như nhiều “công viên khoa học” ở hàng loạt thành phố lớn của đất nước. Tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao trong xuất khẩu của Trung Quốc dao động trong khoảng từ 25 – 30%. Các công ty công nghệ cao của Trung Quốc như Lenovo, Huawei, Xiaomi, Coolpad, ZTE đã bắt đầu cạnh tranh thành công trên thị trường thế giới với các tập đoàn nổi tiếng như Apple, Samsung và nhiều công ty khác. Nếu Trung Quốc tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh chóng, có thể không cao như trước, chỉ cần 6 – 7%/ năm, thì trong tương lai không xa, có thể dự đoán các chỉ số GDP, PPP theo GDP của nước này sẽ vượt Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) cộng lại.

Phía trước Trung Quốc, tất nhiên, còn rất nhiều vấn đề khó khăn, nhưng đó là một chủ đề riêng.

Ngoại diên và nội hàm

Con đường phát triển của Trung Quốc là gì? Để trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải làm rõ các yếu tố trong hiện tượng thành công của Trung Quốc. Thứ nhất, đó là chiến lược phát triển đất nước trong khoảng thời gian 50 – 100 năm. Mục tiêu trung gian là xây dựng một xã hội khá giả toàn diện phải đạt được vào năm 2020 theo Nghị quyết Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Trung Quốc (2007). Thứ hai, đó là mô hình cải cách kinh tế-xã hội. Và thứ ba, là chủ đề của cải cách. Trong ba bộ phận cấu thành này, chiến lược phát triển đất nước chiếm vị trí thống soái – đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.

Nó cũng phải giải quyết một “nhiệm vụ tối quan trọng”, nếu không phải là toàn bộ xã hội, thì ít nhất các tầng lớp ưu tú của đất nước cũng phải cảm nhận được – đó là giành lại cho Trung Quốc vị trí vĩ đại trước đây. Nhưng bản thân thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” có gì khác biệt với ý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, thì chưa ai nói tới. Kể từ khi đẩy mạnh các cuộc cải cách, Đảng Cộng sản Trung Quốc thay đổi dần ban lãnh đạo, tạo ra một chất lượng mới, gây ảnh hưởng lớn tới quá trình cải cách.

Nhưng không thể nói về chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc khi không nói gì về bản chất của các cuộc cải cách kinh tế và chính trị. Ban đầu, nó đặt ra nhiệm vụ công nghiệp hóa và phát triển công nghệ cao. Bằng cách xây dựng một nền kinh tế mới, chủ yếu thông qua việc phát triển một mạng lưới các đặc khu kinh tế (SEZ), chúng có nhiệm vụ như những chiếc máy hút vốn nước ngoài, thiết bị mới, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, điều hành.

Đối với các tài sản nhà nước, việc cổ phần hóa và tư nhân hóa được hoãn lại sau này. Tuy nhiên, trong những năm đầu cải cách, mục tiêu được nhấn mạnh là phát triển nông nghiệp, thông qua việc chuyển nhượng ruộng đất của công xã cho các hộ gia đình, bởi điều đó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất lương thực, thực phẩm và lần đầu tiên sau nhiều năm, Trung Quốc đã có thể tự nuôi được dân mình. Trước năm 1993, Trung Quốc đã xuất khẩu nguyên liệu, bao gồm cả dầu lửa.

Các mô hình cải cách do chính người Trung Quốc thiết lập (gọi là “cải cách và mở cửa” – lấy việc mở cửa ra thế giới thay cho công thức cũ tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình) có sự kết hợp khéo léo giữa kế hoạch với thị trường. Kế hoạch, đưa ra hàng năm, mang tính chất định hướng (gợi mở) hơn là mệnh lệnh cứng nhắc. Trong giai đoạn đầu cải cách, chủ yếu nhà nước xây dựng hạ tầng cơ sở, phát triển các SEZ. Đầu tiên, cộng đồng người Hoa ở nước ngoài (Hoa kiều) gửi vốn đầu tư về các SEZ, điều đặc biệt là lòng tận tâm của Hoa kiều đối với quê hương họ thật đáng kinh ngạc!

Chính sách công nghiệp cũng được suy tính rất sâu sắc. Chẳng hạn, các nhà chức trách Trung Quốc đã hạn chế nghiêm ngặt việc nhập khẩu các loại xe có động cơ và do đó buộc các công ty nước ngoài phải thành lập các công ty con ở Trung Quốc để sản xuất xe hơi với điều kiện nội địa hóa tối đa. Kết quả là, nền kinh tế đã trở nên cạnh tranh và được thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường.

Những biến đổi lớn cũng đã diễn ra trong hệ thống chính trị. Từ khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền, phong cách làm việc của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thay đổi mạnh mẽ. Trong đảng thực hiện việc lấy phiếu thăm dò uy tín sơ bộ đối với danh sách ứng cử viên các cơ quan được bầu trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nạn quan liêu ngày càng bớt đi, cởi mở hơn, thông tin được phản hồi, phong cách văn hóa khoa trương và những phát biểu chỉ biết hứa mà không thực hiện… đang dần dần biến mất. Người Trung Quốc có thể tự do ra nước ngoài và quay trở về.

Ở đất nước này cũng đã ngừng tâng bốc các nhà lãnh đạo. Đảng thực sự tham gia nhiều hơn vào nền kinh tế, chứ không phải chỉ nói tới ý thức hệ. Con đường phát triển, thăng tiến của các nhà lãnh đạo đảng gắn trực tiếp với những thành công trong sản xuất; và những năm gần đây cũng gắn liền với các thành quả trong các lĩnh vực xã hội và bảo vệ môi trường.

Các cuộc bầu cử chính quyền cấp dưới được tiến hành trên cơ sở cạnh tranh, với sự tham gia của những người không đảng phái. Hội nghị chính trị hiệp thương nhân dân Trung Quốc (CPPCC), được thành lập từ thời kỳ đầu tiên mới thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bị lãng quên trong những năm tháng Cách mạng Văn hóa Trung Quốc, đang ngày càng tăng cường hoạt động. Tham gia CPPCC bao gồm cả các thành viên không phải là cộng sản, nhưng mọi hoạt động đều dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, CPPCC đại diện trong các cơ quan quản lý nhà nước ở mọi cấp độ khác nhau.
Đặng Tiểu Bình kiên quyết bảo vệ quan điểm cho rằng hai người đứng đầu Nhà nước – Đảng Cộng sản Trung Quốc (Tổng Bí thư Trung ương Đảng kiêm Chủ tịch Trung Quốc) và Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc chỉ được giữ chức vụ đó không quá hai nhiệm kỳ 5 năm (tổng cộng 10 năm). Quy định này được đưa vào Điều lệ Đảng và Hiến pháp và phải được nghiêm chỉnh thực hiện, để có thể loại trừ hoàn toàn sự xuất hiện một nhà độc tài mới và sự khởi đầu một chiến dịch đàn áp mới, đồng thời cũng cho phép thường xuyên đổi mới các nhà lãnh đạo hàng đầu của đất nước.

Đây cũng là một đòn quyết liệt và nghiêm trọng nhất về chống tham nhũng ở các cấp quyền lực cao nhất. Tất cả các nhà lãnh đạo sau khi đã nghỉ hưu không được hưởng quyền miễn trừ và đều phải bị phán quyết giống như tất cả các công dân khác. Cũng phải nói thêm rằng do tội tham nhũng, nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm cả các ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phải ngồi trên ghế bị cáo, lâm vào cảnh lao lý, kể cả bị tử hình.

Học trò của Bukharin

Vì hầu như tất cả những thay đổi ở Trung Quốc được thực hiện theo các mô hình thay đổi từ từ, loại trừ hoàn toàn các phương pháp sốc, nên khái niệm “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” cũng được thay đổi liên tục. Trong những năm đầu cải cách, những thay đổi ở Trung Quốc có phần nào giống với thực tế NEP của Liên Xô (Chính sách kinh tế mới được thực hiện trong giai đoạn (1921 – 1929). Ngẫu nhiên, Đặng Tiểu Bình năm 1926, theo học tại Liên Xô (trường Đại học Lao động phương Đông) và khẩu hiệu ở Liên Xô khi đó là “Hãy làm cho đất nước giàu hơn!”, hưởng ứng khẩu hiệu của Nikolai Bukharin “Hãy làm giàu!”.

Đặng Tiểu Bình là một người thực dụng và không mù quáng đi theo các lý thuyết. Ngược lại, ông thực hành và từ đó tổng kết, rút ra kinh nghiệm. Phát biểu tại Đại hội XIII Đảng Cộng sản Trung Quốc (1987), ông nói: “Chủ nghĩa xã hội là gì? Chủ nghĩa Mác là gì? Về điều này trước đây chúng ta đã quan niệm không hoàn toàn rõ ràng. Chủ nghĩa Mác gắn tầm quan trọng nhất vào sự phát triển lực lượng sản xuất… Nhiệm vụ cốt lõi cơ bản nhất trong chủ nghĩa xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Các tài liệu Đại hội XIII Đảng Cộng sản Trung Quốc cho biết: “Tất cả những gì đáp ứng lợi ích của nhân dân, mà chủ nghĩa xã hội xác lập, đều đã được đem đến cho họ”. Nhiều người vẫn nhớ câu châm ngôn nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình “mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột” (Mao Trạch Đông không bao giờ tha thứ cho Đặng Tiểu Bình về câu nói này. Khi nói về Đặng Tiểu Bình, ông bảo: “Người này đã không bao giờ thừa nhận đấu tranh giai cấp như một khâu quyết định. Đối với ông ta, mèo trắng hay mèo đen, chủ nghĩa Mác hay chủ nghĩa đế quốc, cũng đều như nhau”).

Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là “vật chất sống”, nó biến đổi theo đời sống riêng của nó. Một trong những thí dụ sinh động là: Trong những năm 1980, Đặng Tiểu Bình nói rằng không thể cho phép hiện đại hóa theo kiểu tư bản: Vốn nước ngoài “không thể pha loãng những thể chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta”. “Chúng ta kiên quyết giữ vững nguyên tắc xã hội chủ nghĩa và không cho phép xảy ra phân cực”.

Ông tuyên bố: “Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không phải để tạo ra sự phân cực, mà là phải làm cho tất cả mọi người sống sung túc, giàu có. Nếu chính sách của chúng ta gây ra sự phân cực, có nghĩa là chúng ta đã thất bại. Nếu ở Trung Quốc xuất hiện giai cấp tư sản mới, có nghĩa là chúng ta đang thực sự quay trở lại con đường sai lầm”. Thế nhưng, giai cấp tư sản và sự phân cực xã hội đã xuất hiện ngay khi Đặng Tiểu Bình còn sống và ông chấp nhận chúng như là điều không thể tránh khỏi.

Người kế thừa Đặng Tiểu Bình là Giang Trạch Dân, cựu Thị trưởng Bắc Kinh, cũng tích cực ủng hộ các khẩu hiệu của Đặng Tiểu Bình về đẩy mạnh làm giàu. Nhưng ông phải đối mặt với tình trạng khó xử, tương tự như cuộc đấu tranh giữa những người cộng sản Bolshevik (Liên Xô) trong NEP: tiếp tục tiến lên có nghĩa là phải chấp nhận lợi ích xã hội đa giai cấp; quay trở lại có nghĩa là theo đuổi cuộc đấu tranh chống sở hữu cá nhân và phải xã hội hóa toàn bộ.
Nhưng vì người Trung Quốc vẫn rất nhớ chính sách cộng sản hóa của Mao Trạch Đông đã gây ra nạn chết đói hàng loạt và đã bắt đầu gặt hái thành quả cải cách, nên rất ít người muốn trở lại quá khứ. Và vào năm 2001, Giang Trạch Dân nêu lên ý tưởng “Ba đại diện”, theo đó Đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải đại diện cho “lực lượng sản xuất tiên tiến, văn hóa tiên tiến” và lợi ích của đông đảo quần chúng.

Điều đó có nghĩa là Đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải mở rộng cửa, tiếp nhận vào Đảng tất cả những đại diện ưu tú nhất của nhân dân. Như vậy, Đảng Cộng sản Trung Quốc không những trở thành đảng của giai cấp công nhân, như đã ghi trong điều lệ, mà còn chuyển đổi thành một đảng của toàn dân. Trên thực tế hiện nay, nhiều người giàu có, bao gồm các triệu phú và tỷ phú, đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Nhà báo và là nhà văn Richard McGregor (người Australia hiện đang sống ở Mỹ), người đã nhiều năm đứng đầu văn phòng Thời báo Tài chính Anh (Financial Times) ở Bắc Kinh, người rất hiểu về Trung Quốc, đã bày tỏ quan điểm cho rằng “thành phần Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thay đổi cùng với những biến đổi xã hội trong thập kỷ qua. Các nhà lãnh đạo đã thoát khỏi gốc rễ giai cấp vô sản một cách có hệ thống, để đổi lấy một liên minh với các tầng lớp giàu có và thành công hơn, được sinh ra từ nền kinh tế thị trường”.

Đảng, đã có thời chủ yếu là các đảng viên công nhân và sau đó là nông dân, bây giờ thì chủ yếu lựa chọn các sinh viên tài năng và doanh nhân giàu có. Họ đại diện cho các nguồn phát triển nhanh nhất trong số các đảng viên mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vì vậy, trong giai đoạn 2002-2007 số lượng đảng viên cộng sản có nguồn gốc xuất thân này đã tăng 255% và 113% tương ứng. Nhiều người trong số họ sẵn sàng tham gia hàng ngũ đảng, để đổi lại sẽ nhanh chóng tiếp cận, leo lên các bậc thang danh vọng, nghề nghiệp.

Người kế nhiệm ông Giang Trạch Dân, nắm cương vị Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là Hồ Cẩm Đào đã gọi chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là một thành tựu quan trọng trong quá trình “Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác”. Ông cho rằng “đây là một hệ thống lý luận khoa học, bao gồm học thuyết của Đặng Tiểu Bình, các ý tưởng quan trọng ‘Ba đại diện’ và quan điểm phát triển khoa học những ý tưởng và chiến lược khác có ý nghĩa to lớn”. Nhưng sự phân tầng xã hội trong những năm cải cách đã đi quá xa tới mức Hồ Cẩm Đào phải thay đổi khẩu hiệu “Hãy để đất nước có nhiều người giàu có hơn!” bằng khẩu hiệu: “Hãy để đất nước có ít người nghèo hơn!”.

Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới

Nhiều tác giả theo lối cũ vẫn gọi Trung Quốc là quốc gia cộng sản. Mặc dầu, trên thực tế, theo đánh giá của Viện nghiên cứu Hồ Nhuận ở Thượng Hải, Trung Quốc hiện có 317 tỷ phú và hiện đứng thứ hai thế giới sau Mỹ về chỉ số này. Đảng Cộng sản Trung Quốc theo thành phần xã hội chủ yếu là các tầng lớp sống sung túc và những người giàu có, ít giống với các Đảng Cộng sản khác. Chính vì thế đang diễn ra nhiều cuộc tranh luận về chủ đề Trung Quốc đang xây dựng cái gì và rồi sẽ đi tới đâu. Những người cộng sản Liên bang Nga vẫn nhìn nhận Trung Quốc như một nước xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn là một Đảng Cộng sản. Nhiều nhà phân tích cánh hữu cũng tin rằng Trung Quốc vẫn là một quốc gia cộng sản, nhưng mô hình kinh tế Trung Quốc có quá nhiều vốn, sẽ gặp nhiều khó khăn và bế tắc.

Phương Tây từ lâu đã đặt câu hỏi về bản chất cộng sản của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhưng quan điểm của các nhà phân tích phương Tây về thực tại Trung Quốc cũng rất khác nhau. Richard McGregor trong bài viết dưới tựa đề “5 huyền thoại về Đảng Cộng sản Trung Quốc”, được xuất bản trên tạp chí Chính sách đối ngoại của Mỹ trong tháng 1-2/2011, đã đưa ra một phụ đề: “Trung Quốc – một quốc gia cộng sản chỉ trên danh nghĩa”.

Bài viết này đưa ra một diễn đàn đã làm dấy lên cuộc tranh luận nảy lửa, tham gia trong đó là những người có trình độ kiến thức khác nhau và thái độ khác nhau đối với Trung Quốc. Ví dụ, một thành viên diễn đàn dưới cái tên The Magus nhấn mạnh: “Cộng sản là dựa trên nền kinh tế – một nền kinh tế tập thể, kế hoạch tập trung. Tất cả các phần còn lại chỉ thuộc loại thứ yếu. Nếu không có chính sách kinh tế cộng sản thì không có chủ nghĩa cộng sản. Bởi vậy, trên thực tế Trung Quốc được gọi là quốc gia cộng sản chỉ trên danh nghĩa”. Nhiều người đồng ý với ý kiến này. Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại nhấn mạnh vào một thực tế cho thấy Trung Quốc vẫn là một quốc gia cộng sản: không có hệ thống đa đảng, không phân chia quyền lực, không tôn trọng tự do báo chí, nhân quyền… Khi nói về tương lai của Đảng Cộng sản (và đương nhiên, về Chính phủ Trung Quốc), thì phần lớn đều ủng hộ quan điểm cho rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc là một “đảng-nhà nước” sớm hay muộn cũng sẽ rời khỏi chính trường.

Trong trường hợp tiếp tục phát triển nhanh chóng, tại Trung Quốc sẽ xuất hiện hàng chục triệu người có học thức cao, giai cấp trung lưu trở nên đông đảo, cộng đồng doanh nghiệp có ảnh hưởng, mức sống của người dân sẽ được nâng cao, ý thức quần chúng sẽ biến đổi. Và khi đó Đảng Cộng sản, hoặc là biến thành một đảng dân chủ, hoặc sẽ bị chia rẽ, giống như nhiều trường hợp ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Khi đó, phe phái nào hướng tới con đường tập trung phát triển dân chủ sẽ giành chiến thắng.

Một khả năng khác là tốc độ tăng trưởng giảm, tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói tăng mạnh. Đó là những yếu tố dẫn đến sự không hài lòng đối với đảng cầm quyền và xuất hiện phe đối lập, được hình thành trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các cộng đồng người Trung Quốc, cũng như giữa các thành viên của Đảng Cộng sản. Điều đó buộc đảng cầm quyền phải rời khỏi chính trường. Trong trường hợp đó, cả đảng cầm quyền cũng như chế độ nhà nước Trung Hoa sẽ trở lại như trong quá khứ. Tuy nhiên, một số người vẫn khẳng định Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể tiếp tục nắm chính quyền, với điều kiện chế độ này biến thành một chế độ sô-vanh, gây hấn.

Có thể thấy rõ, đã xuất hiện những cơ hội rất lớn để xây dựng ở Trung Quốc một kiểu xã hội xã hội-dân chủ phiên bản đặc biệt. Thực tế là hiện nay khu vực tư nhân đã chiếm ưu thế trong nền kinh tế Trung Quốc và nó không gây trở ngại cho quá trình xây dựng này. Hiện nay, trong tất cả các nước xã hội-dân chủ, nền kinh tế đều là kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng sự khác biệt với các nước được gọi một cách ước lệ “tư bản chủ nghĩa”, là ở chỗ phương pháp phân chia công bằng hơn các tài sản quốc gia, khoảng cách rất hẹp giữa người giàu và người nghèo, mức độ rất cao tình đoàn kết dân tộc và tính nhân văn trong các mối quan hệ xã hội.

Điều quan trọng không phải là Trung Quốc sẽ được gọi là một nước tư bản, một nước xã hội chủ nghĩa, hay một cái tên gì khác nữa; và đối với đảng cầm quyền của nó cũng vậy. Chẳng hạn, ở nước Nga, không phải chỉ có một tờ báo cánh tả “Moskovsky Komsomolets” được gọi cái tên như vậy, nhưng cái tên này không hề ngăn cản bản chất tờ báo này là như thế nào. Theo các nhà phân tích nghiêm túc, trong một tương lai gần Trung Quốc sẽ không biến đổi thành một nền dân chủ tự do. Nhưng ở một mức độ phát triển cao hơn nữa, Trung Quốc chắc chắn sẽ xây dựng một xã hội dân chủ. Chỉ có điều đây cũng sẽ là một xã hội dân chủ “đặc sắc Trung Quốc”.

Theo NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG

Tags: , , ,